Tin tức

CƯ SĨ CHÁNH TRÍ MAI THỌ TRUYỀN:

ĐẠO – ĐỜI ĐỀU VIÊN MÃN

 

Tin ảnh: TRÍ BÁ

 


 

Sáng ngày 15/4, nhân lễ húy kỵ lần thứ 49 Cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền, Ban Phật học Chùa PH Xá Lợi đã tổ chức buổi thuyết trình đề tải: “Công đức của Cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền trong việc chấn hưng Phật giáo Việt Nam”. Diễn giả của buổi thuyết trình là Cư sĩ Trần Đình Sơn, Trưởng ban Phật học Chùa PH Xá Lợi.

Dự buổi thuyết trình còn có đại diện gia đình Cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền.

Cư sĩ Trần Đình Sơn đã trình bày hai vấn đề chính: Cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền với vai trò là một công dân và với vai trò là một Phật tủ.

VAI TRÒ LÀ MỘT CÔNG DÂN

Cư sĩ Chánh Trí - Mai Thọ Truyền sinh năm 1905 tại làng Long Mỹ tỉnh Bến Tre, và đã học tại các trường trung học Mỹ Tho và Chasseloup Laubat ở Sài Gòn. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Ông thi đậu Tri huyện năm 1931 và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Năm 1945, sau Cách Mạng Tháng Tám, ông đã làm Chủ tịch Ủy ban Quận bộ Châu Thành Long Xuyên rồi Trưởng phòng hành chính Ủy ban Hành chính Tỉnh bộ Long Xuyên. Sau khi quân đội Pháp chiếm Long Xuyên, ông cùng Ủy ban dời về núi Sập rồi giải tán, nhường quyền chỉ huy kháng chiến cho quân sự. Ông lánh về vùng thôn quê ẩn náu. Chính phủ Nguyễn Văn Thinh mời ông làm Quận trưởng, rồi Phó tỉnh trưởng Sa Đéc. Trước cảnh quân đội Pháp bố ráp tàn sát dân chúng, ông can thiệp không được, nên xin từ chức. Chính phủ không cho, ông bèn cáo bệnh xin đi điều dưỡng.

Ông xin đổi về Sài Gòn năm 1947 và lần lượt giữ những chức vụ: Chánh văn phòng phủ Thủ tướng của chính phủ Nguyễn Văn Xuân (Hà Nội), Chánh văn phòng Bộ Kinh tế, Giám đốc hành chính sự vụ Bộ Ngoại giao, Đổng lý văn phòng Bộ Nội vụ của chính phủ Nguyễn Nam Long, Đổng lý văn phòng Phủ Thủ hiến Nam Việt và Phó đổng lý văn phòng Phủ Thủ tướng của chính phủ Bửu Lộc. Năm 1955 ông đổi sang ngạch thanh tra hành chính và tài chính và đến năm 1960 về hưu thời chính phủ Ngô Đình Diệm. Sau cách mạng 1963, ông tham dự Hội đồng Nhân sĩ Cách mạng trong chính phủ Dương Văn Minh, và đến năm 1967 ông ứng cử Phó tổng thống chung liên danh với ông Trần Văn Hương. Năm 1968, ông giữ chức Quốc vụ khanh kiêm viện trưởng Giám sát viện trong chính phủ Trần Văn Hương, rồi đổi sang chức vụ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa cho đến năm ông mất (1973).

Với trách vụ Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa, ông đã làm được những việc có ích cho đương thời và hậu thế: Xây dựng Thư viện Quốc gia (ngay trên khuôn viên khu đất mà thực dân Pháp đã dùng xây khám lớn Sài Gòn) nay là Thư viện Khoa học Tổng hợp thành phố, ở đường Lý Tự Trọng. Thư viện này do kiến trúc sư Phật tử Nguyễn Hữu Thiện chủ trì thiết kế, khởi công năm 1965, hoàn tất năm 1970, là một công trình kiến trúc hiện đại.

Trong thời gian này, ông xúc tiến việc thành lập Văn khố quốc gia và Nhà văn hóa, thành lập và đẩy mạnh hoạt động của Ủy ban Điển chế văn tự, lập Ủy ban dịch thuật và xuất bản các sách Hán Nôm quý hiếm, thành lập Chi nhánh Bảo tồn Cổ tích Huế. Hành nhiệm ở đâu cũng liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.

VAI TRÒ LÀ MỘT PHẬT TỬ

Do nhân duyên với Phật pháp, Cư sĩ Mai Thọ Truyền, mặc dù bận rộn với việc quan trường, nhưng vẫn lưu tâm tìm hiểu về những tư tưởng, triết học của nhiều tôn giáo thông qua sách vở. Ngay khi còn làm việc ở miền Tây, với trí thông minh và nhạy bén, ông đã đàm luận với nhiều vị am tường Nho học, các nhà sư thông hiểu Phật học cùng thời nhưng vẫn chưa thỏa mãn sự hiểu biết, tìm tòi của ông. Đặc biệt, một duyên may lẫn vinh hạnh lớn đối với ông là gặp được Hòa thượng Thích Hành Trụ (1904-1984) - một vị cao Tăng của Phật giáo Việt Nam thời hiện đại đang hành đạo tại Sa Đéc. Sau khi được hòa thượng khai thị những yếu chỉ căn bản nhất để học Phật, đồng thời nhận thấy oai nghi và đức độ của ngài, ông Mai Thọ Truyền hết sức kính ngưỡng và xin Hòa thượng Hành Trụ qui y làm đệ tử. Hòa thượng hoan hỉ truyền tam qui ngũ giới cho ông Mai Thọ Truyền và đặt pháp danh là Chánh Trí. Từ đó, Phật tử Chánh Trí - Mai Thọ Truyền dốc lòng ủng hộ Phật pháp, nhất là sự nghiệp hoằng dương đạo pháp với mục tiêu hướng đến trí tuệ và xây dựng chánh tín cho hàng cư sĩ. Về đời sống bản thân, ông thực hiện chế độ trường trai từ đó.

Cư sĩ là người khởi xướng thành lập, đồng thời trở thành linh hồn của Hội Phật học Nam Việt. Hội Phật học Nam Việt thành lập năm 1950 tại Sài Gòn, là đoàn thể nam nữ đạo hữu Phật học ở Miền Nam Việt Nam có tổ chức rõ ràng, có điều lệ nội qui được chính quyền thời bấy giờ chứng nhận pháp lý hoạt động. Trước năm 1975, hội có trên 40 tỉnh hội, chi hội. Riêng hội sở trung ương có trên 6.000 hội viên ghi tên gia nhập. Đó là chưa kể hội viên tán trợ công đức, cảm tình viên lên đến 10.000 hội viên. Cư sĩ được tín nhiệm bầu làm Tổng thư ký của hội khi mới thành lập rồi nhận chức Hội trưởng từ năm 1955 cho đến ngày ông mất.

Để làm đòn bẩy thúc đẩy cho phong trào chấn hưng Phật giáo tại miền Nam, năm 1952, ông và Hội Phật Học Nam Việt đã tạo nên Phật sự vô cùng quan trọng, gây được tiếng vang khắp toàn quốc. Đó là lễ rước ngọc xá lợi tại Sài Gòn vào ngày 13-9-1952.

Nhân khi phái đoàn Phật giáo Tích Lan đi dự Đại hội Phật giáo thế giới kỳ II tại Tokyo, có mang theo một viên ngọc xá lợi để tặng quốc gia Nhật Bản. Trên đường đi, phái đoàn quá cảnh Sài Gòn 24 tiếng đồng hồ. Tiến sĩ Malalasekeka, chủ tịch hội Phật giáo thế giới đánh điện cho Hội Phật học Nam Việt tổ chức cung nghinh xá lợi lên bờ cho công chúng chiêm bái trong khoảng thời gian tàu ghé lại Sài Gòn. Được sự ủy nhiệm của Thượng tọa Tố Liên, đại diện của hội Phật giáo thế giới tại Việt Nam và các tổ chức trong Tổng hội Phật giáo Việt Nam ủy nhiệm, Hội Phật học Nam Việt đứng ra tổ chức một ủy ban liên phái gồm 11 đoàn thể cung nghinh xá lợi, số lượng tham dự lên đến nửa triệu người (phỏng ước của báo chí) làm cho nhà cầm quyền Việt Pháp lúc bấy giờ phải kinh ngạc trước sức mạnh tinh thần của Phật giáo.

Với sự tha thiết của Phật giáo đồ Việt Nam như thế, sang năm sau (1953) đại đức Narada Mahathera, tọa chủ chùa Vajirarama ở Tích Lan sang Việt Nam, phụng thỉnh theo 3 viên xá lợi và 3 cây Bồ đề con, để dâng cúng cho 3 nơi: Phật giáo Nguyên thủy (chùa Kỳ Viên), Phật giáo Bắc tông và Phật giáo Cao Miên (theo lời tuyên bố của đại đức lúc đến phi trường Tân Sơn Nhất).

Được ủy nhiệm, đạo hữu Chánh Trí – Mai Thọ Truyền dẫn đầu một phái đoàn hợp cùng phái đoàn cung nghinh do Phật giáo Nguyên thủy tổ chức, lên phi trường Tân Sơn Nhất tiếp đón đại đức và các bảo vật. Về đến chùa Kỳ Viên, đại đức lập lại lời tuyên bố ban đầu và dự định vào sáng hôm sau sẽ trao cho đạo hữu Chánh Trí phần xá lợi và cây bồ đề dành cho Phật giáo Bắc tông.

Nhưng ngay đêm hôm ấy đã xảy ra sự tranh chấp, về việc đoàn thể Phật giáo nào có đủ tư cách đại điện cho Phật giáo Bắc tông Việt Nam được phụng thờ ngọc xá lợi. Đạo hữu Chánh Trí phải giải thích nhiều mới bênh vực được tư thế của Tổng hội Phật giáo Việt Nam, là tổ chức lớn nhất thời bấy giờ gồm những Tăng già và cư sĩ đại diện 3 miền đất nước.

Do vì chưa nắm rõ tình hình nội bộ Phật giáo Việt Nam và để tránh sự dị nghị, sau khi thảo luận với đạo hữu Chánh Trí, đại đức Narada đã quyết định dâng ngọc xá lợi lên đức Từ Cung, thân mẫu cựu hoàng Bảo Đại – lúc đó đang làm quốc trưởng chính quyền vùng Pháp tái chiếm, để bà Hoàng Thái hậu tùy ý giao lại cho đoàn thể Phật giáo nào mà bà xét thấy đáng phụng thờ di tích của đức Thế tôn.

Hai năm sau, đức Từ Cung quyết định giao cho Tổng hội Phật giáo Việt Nam trách nhiệm phụng thờ ngọc xá lợi. Tổng hội xét công lao của Hội Phật học Nam Việt, đã ủy nhiệm cho hội nhiệm vụ thờ phụng, lúc ấy trụ sở của hội còn đặt tại chùa Phước Hòa ở khu Bàn Cờ, cũ kỹ và chật hẹp.

Đến năm 1955, hội Phật học Nam Việt quyết định xây dựng chùa mới tại một vị trí khác, để có nơi xứng đáng phụng thờ di bảo đức Thế tôn và đủ chỗ cho thiện nam tín nữ đến lễ Phật chiêm bái xá lợi. Và ngôi chùa Xá Lợi được hoàn thành ngày 2 tháng 5 năm 1958. Tại ngôi chùa này, cư sĩ cùng với các cộng sự tổ chức các hoạt động giảng kinh nhằm truyền bá chánh pháp của Đức Phật đến với nhân dân.

Ngôi chùa Xá Lợi, tiêu biểu cho nét văn hóa mới của Đông Tây hòa quyện, làm trụ sở của Hội Phật Học Nam Việt. Chùa được kiến trúc một cách mới mẻ, có tháp chuông, chính điện, giảng đường, thư viện và tăng xá. Đích thân cư sĩ lo liệu mọi thủ tục như xin phép xây dựng, xin phép tổ chức lạc quyên tạo nguồn kinh phí. Sau khi hoàn thành, Hội làm lễ lạc thành rất long trọng vào các ngày 14, 15, 16 tháng Ba năm Mậu Tuất (nhằm ngày 2,3,4 tháng 5 năm 1958) và được HT. Khánh Anh (Pháp chủ Giáo hội Tăng già Nam Việt đồng thời là chứng minh Đại đạo sư của Hội Phật học Nam Việt) đặt tên chùa Phật học Xá Lợi. Chùa được xây cất trên khoảnh đất rộng 2.500 m2, đặc biệt tháp chuông của chùa Xá Lợi với một tỷ lệ cân xứng và những mái cong thanh nhã đã trở thành một biểu tượng đẹp trong lòng thành phố Hồ Chí Minh ngày nay.

Ngoài ra, trong Phong trào Phật giáo năm 1963, Cư sĩ Chánh Trí - Mai Thọ Truyền được tín nhiệm bầu làm Tổng Thư ký Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo để bảo vệ sự tồn vong của đạo pháp, đòi hỏi chính quyền Ngô Đình Diệm thực thi quyền bình đẳng tôn giáo. Ông và Hội Phật Học Nam Việt đồng ý để Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo đặt trụ sở trung ương tại chùa Xá Lợi. Khi chính quyền cho quân đội và cảnh sát đánh phá, phong tỏa chùa, bắt bớ cầm tù Tăng Ni Phật tử, ông cũng chịu chung số phận. Chùa Xá Lợi trở thành địa điểm lịch sử trong cuộc đấu tranh kiên cường đẫm máu của Phật giáo đồ chống chế độ độc tài kỳ thị tôn giáo.

Ngoài ra, trên con đường phụng sự đạo pháp, Cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền lúc nào cũng là vị trí thức chân chính, hết mực tận tụy trong sự nghiệp viết sách, dịch kinh nhằm hoằng truyền giáo lý nhà Phật. Những tác phẩm mà ông để lại rất có ý nghĩa cho những ai muốn nghiên cứu giáo điển nhà Phật, hiểu biết về lịch sử - văn hóa Phật giáo. Đó là các quyển: Tâm và Tánh, Ý nghĩa Niết Bàn, Một đời sống vị tha, Tâm kinh Việt giải,  Le Bouddhisme au Viet Nam, Pháp Hoa huyền nghĩa, Địa Tạng mật nghĩa (1965) do Hội Phật học Nam Việt xuất bản. Ngoài ra, ông còn một số tác phẩm chưa xuất bản như: Truyền tâm pháp yếu, Tây Du Ký, Hư Vân Lão Hòa Thượng, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Mười lăm ngày ở Nhật, Vòng quanh thế giới Phật giáo, Đạo đời, Khảo cứu về Tịnh Độ Tông, Mật Tông và một tác phẩm đang viết dở là Kinh Lăng Nghiêm. Những quyển sách này chứng tỏ rằng ông là người có nhân duyên rất lớn với Phật pháp, thâm nhập được diệu nghĩa kinh tạng Đại thừa, thể hiện rõ chí hướng hoằng truyền giáo lý nhà Phật để xã hội thực hành, phát triển nền tảng đạo đức,… Đặc biệt, Tạp chí Phật học Từ Quang do cư sĩ làm chủ nhiệm kiêm chủ bút hoạt động liên tục trong vòng 23 năm (1951-1973) với 242 ấn phẩm có giá trị, phổ biến nhiều kiến thức Phật học có giá trị đến giới Phật giáo đương thời.

Cuối buổi thuyết trình, đại diện gia đình Cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền đã cảm ơn Ban Tổ chức, cư sĩ Trần Đình Sơn và những Phật tử tham dự.

Trước những công lao to lớn của Cư sĩ Chánh Trí, Cư sĩ Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đề nghị Ban Phật học phối hợp với gia đình Cư sĩ Chánh Trí xuất bản một tác phẩm về cuộc đời và sự nghiệp của Cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền, có thể vào dịp húy kỵ lần thứ 50.

 


Cư sĩ Trần Đình Sơn

 Đại diện gia đình Cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền (ngồi giữa hàng đầu)

Các Phật tử tham dự buổi thuyết trình

Cư sĩ Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đề nghị nên có một tác phẩm
về cuộc đời và sự nghiệp của Cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền

 

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 10)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 9)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 8)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 31
    • Số lượt truy cập : 6791962