HÌNH ẢNH TRÍ THỨC PHẬT GIÁO QUA KÝ SỰ MƯỜI LĂM NGÀY TRÊN NƯỚC NHẬT
HÌNH ẢNH TRÍ THỨC PHẬT GIÁO QUA KÝ SỰ
MƯỜI LĂM NGÀY TRÊN NƯỚC NHẬT
ThS. NGUYỄN THÀNH TRUNG
Khoa Ngữ văn, Trường ĐH Sư phạm TP. HCM
Mười lăm ngày trên nước Nhật là thiên ký sự của Mai Thọ Truyền (1905-1973) viết về chuyến thăm nước Nhật hồi năm 1958. Do đặc trưng của thể loại, lối tiếp cận trực tiếp, nhân vật kể chuyện trong ký sự không thể trốn sau điểm nhìn gián tiếp hoặc toàn tri mà phải đứng ra xưng tôi để gắn bó với từng biến chuyển của tiến trình. Nhờ thế tác giả có thể tự do kể, suy ngẫm về sự việc hiện tượng nhưng ngược lại phải chấp nhận bộc lộ chính bản thân bất chấp ý định sắp đặt, ước muốn ngụy tạo. Từ góc độ người kể, bên cạnh dòng chủ lưu Phật giáo, Mai Thọ Truyền còn bộc lộ tính chất của một trí thức Việt Nam truyền thống thấm nhuần tư tưởng đạo đức thẩm mỹ Nho và Lão. Thế nên khi ngồi trên máy bay, ông bình: Có lên cao mới thấy đời là bé1; nhìn dòng suối tẩy tịnh của Thần đạo Nhật Bản thì ông bất giác nhớ đến câu Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ rồi thêm cảm lẽ vô thường và biến dịch; thưởng thức trà đạo đẫm Thiền vị thì ông lại dựng lên không khí của Khổng Tử:
Đức Khổng há không bảo: Chiếu trải không ngay, người quân tử không ngồi? Ngoài có cái ngay, cái chánh, trong mới có cái chánh, cái ngay. Hay thật là hay! Lại nữa, pha có một bát trà mà nếu làm uyên náo lên, như lật bát bát khua, đổ nước nước thét, thì tai còn làm sao chịu nổi những tiếng ầm ỉ của những công trình vĩ đại hơn. Phải bắt chước cái “trạm tịch” trong trời đất là cái xưởng rộng lớn vô biên, trong đó núi biển được xây đào ngày đêm mà không nghe một tiếng vang2.
Rồi kết bằng một câu rất Lão Trang: “Quả là vô vi nhi vô bất vi, tựa hồ như trời đất không làm gì hết, nhưng không gì là trời đất không làm, từ cái to như đắp núi đào sông, đến cái nhỏ như vỏ hột nguyên tử”3. Thế mới thấy dù ý thức đời sống Mai Thọ Truyền là Phật giáo nhưng vô thức của ông lại là Nho và Lão, đây là quy luật chung của hệ thống giá trị quan niệm người Việt: giới bình dân gần với Phật, giới trí thức gần với Nho Lão. Nhưng điều này không phải là nhất thành bất biến vì tư tưởng tam giáo đồng nguyên cho phép người ta khi bôn ba hoạn lộ dùng Nho, lúc thất chí viện tới Lão và khi hiểu đạo, buông tay thì về với Phật. Khi tâm không ngăn ngại thì không cần phân biệt nên trong trang ký sự của Chánh Trí Mai Thọ Truyền lại có những đoạn phóng túng và phiêu dật đến mức thấy đoàn học sinh múa đón đại biểu lại ngẩn ngơ “không biết các em biến thành búp bê hay những búp bê biến thành các em”4.
Trong khuôn khổ một loại thể văn học, tác giả ký sự phải biết vận dụng các chi tiết để xây dựng hình tượng nhằm nâng cao sức tác động. Các hình tượng nghệ thuật ấy không phải từ cõi tiên giáng xuống hay cõi Phật hiện về mà gắn liền với đời sống. Tiêu biểu nhất là khi tả thầy Quảng Minh, Mai Thọ Truyền đã đưa ra hình ảnh phá vỡ tầm đón đợi của người đọc về một “thanh niên đầu đội mũ đen, mình mặc sơ mi trắng, dưới quần dạ đen”5. Nhìn rộng ra, toàn bộ thế giới hình tượng mà Mai Thọ Truyền chọn lựa xây dựng đều xoay quanh hành trình đến với các tự viện, tiếp xúc với tăng sĩ, lại thêm quá trình tiếp xúc lâu dài với kinh điển, hệ thống hình tượng và lời văn đậm màu Phật giáo được ông cụ thể hóa một cách đơn giản mà rõ ràng. Ví dụ khi được yêu cầu đánh vào bụng thiền sư Thích Đại Nhạc, cảm nhận của ông như sau: “Bảo đánh trên gỗ cũng không phải, mà bảo đánh trên một bao gòn cũng không đúng. Cái bụng quái lạ của Thiền sư nửa cứng nửa mềm, như toàn bằng gân”6.
Bên cạnh đó, hình tượng văn học hòa hợp cả tính khách quan và chủ quan, trong trường hợp ký sự, tính khách quan dường như khá hạn chế và tiết lộ một hình ảnh khác về chính trị gia, giảng sư, nhà Phật học Chánh Trí Mai Thọ Truyền rất riêng, rất chủ quan, rất gần gũi, rất con người bởi dường như đôi lúc ông có dấu hiệu hội chứng sợ máy bay (Pteromerhanophobia). Ở tuổi tri thiên mệnh nhưng khi máy bay cất cánh trong tiếng nổ chát tai thì cụ viết: “Một phút, mình đã nghĩ dại…”7, hoặc khi đáp xuống Hương Cảng thì cụ hé lộ: “Lắm lúc mình có cảm giác như đôi cánh của máy bay sắp va vào đá núi”8. Thật ra đại đa số hành khách đều không thoải mái khi bị giới hạn trong không gian kín máy bay, lơ lửng trên độ cao ngàn mét và bên ngoài xuống dưới độ âm. Trong hoàn cảnh này, nỗi sợ hãi xuất hiện để đáp ứng kích thích như tiếng ồn, cảnh nguy hiểm… Và người đọc nhận ra một cụ Mai Thọ Truyền ở tuổi 53-54 cũng có nỗi sợ hãi rất phổ biến, cũng chia sẻ một cảm xúc chung và rất đời thường. Chỉ ký sự mới có thể xóa đi khoảng cách của người đọc với tác giả, để đâu đó về sau người ta mỉm cười nhẹ nhàng và ý nhị khi cụ Mai Thọ Truyền đi cáp treo: “Dưới chúng tôi là triền núi thăm thẳm, cây cối um tùm, trông thấy mà ghê”9.
Tuy nhằm ghi chép sự việc nhưng ký sự cũng có nghệ thuật kết cấu riêng, đó là cấu trúc dòng suy nghĩ, liên tưởng và cảm xúc của tác giả điều phối mạch kể, khi dày khi mỏng, lúc đậm lúc nhạt, chỗ thừa thì lượt chỗ cần thì nhấn. Thế nên có một sự thực là chuyến đi Nhật 15 ngày cụ Mai Thọ Truyền dự Hội nghị quốc tế về Lịch sử Tôn giáo không trình bày bất kỳ nội dung gì liên quan đến chuyên môn, đến hội nghị mà chỉ là những chuyến du lịch, hoặc bỏ đoàn đi tham quan. Bởi tác giả lý giải ít có nội dung liên quan đến Phật giáo, vả lại chính bản thân ông đặt mục tiêu thăm chùa chiền và các vị sư ở Nhật Bản ngay từ đầu. Thay cho nội dung hội thảo, ông kể tỉ mỉ phép ngồi thiền được hướng dẫn: “Phép ngồi thiền là dứt các vọng niệm, chuyên chú đến mọi hành động của thân và tâm. Hễ thấy vọng niệm nổi lên, là phải đánh bật ngay, đúng theo ba nguyên tắc căn bản: là vô niệm, vô tưởng, vô năng”10 và cả những điều lý thú đáng ghi nhận ở Nhật Bản như: “Người Nhật không nói hòa bình”11 mà là bình hòa hay nghệ thuật của Thiên lý giáo tiếp đãi trọng thể và tặng áo cho đại biểu, đề nghị họ mặc ngay để chụp hình lưu niệm đã biến người Âu Mỹ cũng thành người Nhật, mà còn là người Nhật của Thiên Lý giáo.
Ngôn ngữ ký sự hé lộ tác giả rõ ràng nhất thông qua cách dùng từ vựng, thủ pháp đối chiếu liên tưởng, dựng câu viết đoạn đậm tính văn hóa cá nhân. Đến với Mười lăm ngày trên nước Nhật là đến với thế giới ngôn ngữ của Mai Thọ Truyền, nửa quen nửa lạ bởi độ lùi lịch sử và bởi cả bản thân ông. Khoảng cách hơn nửa thế kỷ đã đưa ký sự của Mai Thọ Truyền đến với người đọc hiện đại bằng một cảm xúc thú vị xen lẫn hào hứng khi chứng kiến những cách dùng từ cổ như máy nói, châu thành (sđd, trg 19), bul đinh (sđd, trg 23), phưởng phất (sđd, trg 51), ấu trĩ viện (sđd, trg 126)… hay cách diễn đạt không còn phổ biến hiện nay như: “Nhà tiếp khách, cũng như những nhà khác đều cất bằng gỗ, cao cẳng12, Đến món mắm, tuy hơi chua, vẫn còn đẹp miệng13. Thôi chúng ta về, thầy Quảng Minh dục (sđd, trg 55), Lạ nhất là những thửa ruộng cấy lúa mì, buội nào buội nấy hột to và no tròn (sđd, trg 89). Đằng sau những lớp ngôn ngữ ấy là một tinh thần dân tộc, là bản năng cộng đồng khi luôn so sánh, đối chiếu sự vật mới mẻ với món quen quê nhà. Đây là cách ông miêu tả chùa Quán Thế Âm: “Ngay trên mặt lộ, bốn dãy “quán cóc”, theo lối quán chung quanh chợ Bến Thành, san sát nhau theo chiều sàu, chia đại lộ thành ba con đường nhỏ…”14. Và đây, một Mai Thọ Truyền rất Á Đông, rất lãng mạn trước cảnh hòa nên thơ:
Nhiều cội cổ thọ đã khoác chiếc áo vàng thu, xen lẫn với cái xanh man mác xếp thành từng, khi ẩn khi hiện trong những áng mây xam xám. Lắm lúc tôi quên không biết mình đang ngồi xe lăn trên mặt đường, hay đang cỡi mây tung gió, vì ngó lên cũng thấy mây, mà ngó xuống cũng thấy mây15.
Bên cạnh đó, còn có cả một Mai Thọ Truyền nỗ lực miêu tả và phát triển ngôn ngữ nước nhà khi gọi một sự vật mà trong tiếng Việt thời đó chưa có – Thang dây trân:
Đây là một danh từ tự tôi đặt, vì không biết phải gọi thế nào cho đúng. Quý vị hẳn đã thấy những dây trân (courroie) ở các nhà máy chứ? Thì lối thang này cũng giống như thế, chỉ khác là thứ dây trân thang này rộng bề ngang như một cái thang đúc, chậm rãi quay chậm và khi chúng ta lên đứng trên ấy, thì một nháy mắt sau, mặt dây trên, ngay chỗ chúng ta để chân, lần lần nổi lên, bằng phẳng như một cấp thang thiệt. Đến đầu trên, cấp ấy liền hụp xuống, sát liền với mí gạch cho chúng ta dễ bước qua16.
Đặc điểm của nhân sĩ trí thức Phật giáo miền Nam Chánh Trí Mai Thọ Truyền
Trước hết, thông qua ký sự Mười lăm ngày trên nước Nhật, Mai Thọ Truyền đã thể hiện một hình tượng trí thức miền Nam trong cách cư xử và suy nghĩ của ông. Đó là một con người miền Nam sâu sắc nghĩa tình, trải nhiều thăng trầm hợp tan để có thể hiểu cảnh: “Có ra đi mới cảm được cái thâm thúy của những cái vẫy tay (trên sân bay- NTT) này”17. Vượt lên trên tất cả, họ vẫn có thiên hướng hòa vào tự nhiên, đi vào nội tâm, vẫn ôm ấp một thú chơi tao nhã với thi thư, nên ngay trong cảnh nghĩa trang:
Quanh mỗi mộ, tòng bá cong queo, dưới cội lắm khi có những chiếc ghế dài, chắc là dành cho thân nhân đi viếng cảnh. Tôi có cảm giác như lạc lối vào một hoa viên hơn là vào làng của người chết. Giá lưu lại đó được một ngày xem sách và hưởng cái thú tịch tĩnh thì sung sướng biết bao18.
Với tâm hồn tinh nhạy đầy mẫn cảm nghệ thuật, cảm nhận của Mai Thọ Truyền khi thưởng thức trà đạo đạt đến độ vi tế của văn chương khi miêu tả từng cử chỉ của các cô gái pha trà. Đoạn văn này của ông không còn là kể việc mà đã đạt tới tâm thức của bậc thầy nghi lễ, nhà văn giữ gìn vẻ đẹp truyền thống Nhật Bản Kawabata Yasunari như cách mà nhà văn Nhật Bản đầu tiên đoạt giải Nobel Văn chương này miêu tả nghi lễ Trà đạo trong tiểu thuyết Ngàn cánh hạc:
Mình có cảm giác như lạc lối vào một động tiên, trong đó các nhân vật hoạt động nhẹ nhàng như cánh bướm bay hay như những hình bóng chập chờn trên thảm cỏ xanh của những cành cổ thọ, giữa một đêm trăng, trên một ngọn đồi cô tịch19.
Chất lãng mạn Á Đông này của Mai Thọ Truyền hòa quyện với tính hiện đại của một trí thức Tây học, đẩy ông về cực thân phương Tây hơn là Mỹ; có lẽ cũng dễ hiểu, bởi ông được đào tạo trong hệ thống trường Pháp, ông là một trí thức kiểu Pháp chính hiệu. Tuy sống trong hoàn cảnh ảnh hưởng của Pháp tại Việt Nam ngày càng nhạt, dấu ấn của Mỹ ngày càng đậm hơn, chính quyền Ngô Đình Diệm đạt nhiều thành tựu kinh tế, hàng viện trợ Mỹ chống toàn bộ nền kinh tế, bắt đầu xuất hiện các mâu thuẫn tôn giáo… nhưng Mai Thọ Truyền vẫn lãng mạn kiểu Pháp, gác chính trị dấn thân vào hoằng pháp. Ngay trong ngôn ngữ đời thường ông vẫn dùng pha tiếng Pháp ở các diễn đạt như “a gối”, “đờ mi tua” (Mai Thọ Truyền, 64), cách ông thâm trầm nhận xét trong hiệu sách Nhật rằng: “Sách báo chữ Nhật chiếm phần lớn, kế đó là chữ Anh, còn chữ Pháp thì rất ít”20. Ông tinh nhạy với trang phục của các sư thầy Việt Nam, đưa ra nhiều đánh giá xác đáng về đồng phục, lễ phục của các chùa, trường và nhánh tôn giáo ở Nhật… đó là gu thời trang Pháp, lối hướng về truyền thống và thượng tôn giáo dục, nghệ thuật vẫn luôn âm ỉ ảnh hưởng đến cách nhìn, cách cảm, cách đánh giá của ông về mọi sự vật hiện tượng trong chuyến hành trình.
Tuy vậy, thẳm sâu ông vẫn là người Việt, vẫn nặng lòng vì đất nước quê hương, thế nên trí thức ly hương thấy gì cũng nghĩ ngay đến so sánh để phát triển tổ quốc. Trong tâm thế đó, ông để tâm chú ý tất cả những điều hay điểm tốt của người Nhật, đặc biệt là trong lĩnh vực truyền thống của Việt Nam: nông nghiệp:
Nhưng nhìn kỹ lại, phải lạ cho cái tài nông nghiệp của người Nhật. Với họ hình như không có vấn đề chọn đất cho mỗi thứ cây, không có ruộng lúa riêng, hoa màu riêng. Ở thấp có lúa mà ở cao cũng có lúa, rồi cạnh đám ruộng, là đám dưa, đám cải… Bấy lâu nay nghe đồn người Nhật hoàn toàn làm chủ mực nước chỗ nào thiếu thì họ cho vô, chỗ nào dư họ cho ra, thì quả đây rồi. Thêm vào lại còn nào là phân hóa học, nào là kỹ thuật gieo trồng, thành ra ruộng nương của họ đồng đều một màu sắc tươi tốt, không có nơi đặng nơi thất21.
Ông cũng đặc biệt ấn tượng với đời sống hoạt động dịch vụ của người Nhật: “Lần đầu tiên vào một hiệu ăn Nhật, phải phục cái sạch sẽ và lối trang hoàng vừa đơn giản, vừa mỹ thuật của họ”22 cũng như đời sống gần gũi thiên nhiên của các gia đình Nhật Bản: “Phía sau nhà, cạnh chân núi, có thửa vườn con, xinh xinh như một hòn non bộ: có cây có lá, có hoa có thảo, có suối có hồ, trong lòng nước biếc nhởn nhơ vài con cá nhỏ. Sao người Nhật thi sĩ đến thế cơ?”23.
Tuy nhiên, cái nhìn đa diện đa chiều của người trí thức thúc đẩy Mai Thọ Truyền không chỉ khen một chiều mà còn nhận ra những điểm chưa ổn ở đất nước Nhật Bản khi họ còn mê tín kiểu: “Ông bà lấy tay mặt xông khói hương đang nghi ngút để rồi thoa lên đầu các trẻ, miệng khấn vái lầm thầm. Thế là về phương diện này, tôi tự nghĩ, người Nhật không hơn gì chúng ta”24 và mê bài bạc:
Các bạn cứ tưởng tượng một nhà to hai gian, bề thâm độ chín hay mười thước. Thế mà từ trước đến sau đen nghẹt là người, già có, trẻ có, đàn ông đàn bà đủ hạng, anh nào chị nấy đều ghì đầu vào những cái máy có nút xanh đỏ mà họ bấm rồi dòm, dòm rồi bấm; Vậy ra người Việt mình đã chịu tiếng oan là ham mê cờ bạc bậc nhất25.
Tuy vậy, cái tôi trí thức yêu nước của Mai Thọ Truyền khi phản chiếu bản thân thì dường như vẫn có một mâu thuẫn, ẩn ức rất lớn. Từng làm quan, làm cách mạng, rồi giữ các chức vụ cao trong nền hành chính của Pháp, từ chức, rồi lại làm việc trong chính phủ Ngô Đình Diệm; chưa kể đến khuynh hướng xung đột tôn giáo đang diễn ra trước mắt, Mai Thọ Truyền có lẽ cảm nhận được tính phức tạp của thời đại và khả năng hữu hạn cá nhân nên bất giác nhìn cái mõ gỗ hình con cá bỗng nhớ câu thơ Chày kình gióng tỉnh giấc Vu san, Mái tóc xem ra nửa trắng vàng của Tôn Thọ Tường, một danh sĩ bị chỉ trích vì hợp tác với Pháp, rồi tự vấn rằng đầu đã điểm sương nhưng đã tỉnh thật hay chưa. Có lẽ đây cũng là lý do mà Mai Thọ Truyền chuyển ngạch công chức và dành phần lớn thời gian nghiên cứu, phát triển Phật giáo tại miền Nam để từ đó chất Phật thấm quyện trong toàn bộ ký sự của ông, có thể đó là lối thoát, cũng có thể đó là cơ duyên. Thế cho nên ông không quan tâm bàn cãi của hội nghị mà xác định từ đầu: “thú nhất là được tham bái vài vị cao tăng và tiếp xúc với bốn vị thanh niên Sa môn của nước nhà, hiện đang theo các lớp đại học tại thủ đô nước Nhật”26. Để rồi không chỉ tái hiện hành trình tìm chùa bái sư, ngôn ngữ trong ký sự của Mai Thọ Truyền cũng đậm chất Phật giáo với hệ thống biệt ngữ như:
Tôi bèn xin Ngài hoan hỷ ban cho Chùa Xá Lợi vài chữ để làm kỷ niệm. (sđd, trg 32)
Tôi thử ngồi theo lối Nhật cho được viên mãn. (sđd, trg 32)
Lương thảo đã cụ túc, bây giờ còn chờ gì mà chẳng tấn binh. (sđd, trg 81)
Mỗi khi từ trong cảnh tối om, xe vượt ra ngoài ánh sáng bình minh, tôi sung sướng tưởng chửng như đã được giải thoát vô minh. (sđd, trg 119)
Không chỉ bằng lời, chất Phật còn thể hiện trong ký sự của Mai Thọ Truyền qua trách nhiệm của một nhà hoạt động Phật giáo. Đó là người có khả năng tìm thấy yên bình và hạnh phúc ngay trong cuộc sống, kiểu: “Đứng trên những chiếc cầu con bằng đá hình bán nguyệt, dưới bóng râm của những cổ thụ cong queo, nhìn xuống dòng nước ven bờ rêu phủ xanh rì, trong một cô tịch xa hẳn cuộc đời ồ ạt bên ngoài, lòng tôi thấy lâng lâng và nhẹ nhàng lạ”27 và từ đó cùng góp phần vào việc hoằng dương Phật pháp, giải quyết những vấn đề đời sống Phật giáo:
Ở chùa Xá Lợi có gì đâu, chúng tôi chỉ giữ sạch sẽ, đúng vệ sinh, thế mà còn có người cho là cảnh Tiên. Tôi không hiểu tại sao người mình lại có cái ý muốn cho chư Tăng cứ sống mãi trong cảnh lượm thượm. Ở châu thành mà thiếu vệ sinh là chết28.
Hình ảnh nhân sĩ trí thức yêu nước miền Nam Chánh Trí Mai Thọ Truyền gợi nhớ đến một chàng Lục Vân Tiên văn võ toàn tài nhưng lại phải đau đớn khi trên hành trình vạn dặm lại được tin mẹ mất: “Đau đớn thay! Dè đâu một chuyến đông du có mười lăm hôm đã làm cho tôi hóa thành một người mất mẹ”29 rồi từ đó bị cuộc đời xô đẩy theo những biến đổi khôn lường để: “Không dè ngày tôi trở vể đất tổ, hai năm sau lại là ngày cáo chung của chính thể Ngô Đình Diệm”30, nhưng nhờ Phật pháp mà vẫn an nhiên bởi: “Thật là vô thường, lời Phật không sai!”31.
Tóm lại, bài viết đã khảo sát hệ thống người kể chuyện, câu chuyện, trọng tâm và ngôn ngữ phần Mười lăm ngày trên nước Nhật trong Hải ngoại ký sự, thông qua đó làm rõ đặc điểm một nhân sĩ trí thức Phật giáo yêu nước miền Nam vào thế kỷ XX: Chánh Trí Mai Thọ Truyền. Đây là một góc nhìn khác về ngọn cờ đầu của phong trào chấn hưng Phật giáo miền Nam sau Cách mạng Tháng Tám (1945) nhằm chỉ ra những nét rất nhỏ nhưng có thể làm rõ bức tranh lớn cuộc đời, tư tưởng và trước tác giá trị của ông.
1. Chánh Trí Mai Thọ Truyền (2012), Hải ngoại ký sự, Nxb.Tôn giáo, trg 12.
2. Hải ngoại ký sự, sđd, trg 73-74.
3. Hải ngoại ký sự, sđd, trg 73-74.
4. Hải ngoại ký sự, sđd, trg 120.
5. Hải ngoại ký sự, sđd, trg 19.
6. Hải ngoại ký sự, sđd, trg 62.
7. Hải ngoại ký sự, sđd, trg 12.
8. Hải ngoại ký sự, sđd, trg 13.
9. Hải ngoại ký sự, sđd, trg 84.
10. Hải ngoại ký sự, sđd, trg 61.
11. Hải ngoại ký sự, sđd, trg 49.
12. Hải ngoại ký sự, sđd, trg 29.
13. Hải ngoại ký sự, sđd, trg 29.
14. Hải ngoại ký sự, sđd, trg 39.
15. Hải ngoại ký sự, sđd, trg 78.
16. Hải ngoại ký sự, sđd, trg 116.
17. Hải ngoại ký sự, sđd, trg 12.
18. Hải ngoại ký sự, sđd, trg 59.
19. Hải ngoại ký sự, sđd, trg 71.
20. Hải ngoại ký sự, sđd, trg 106.
21. Hải ngoại ký sự, sđd, trg 46.
22. Hải ngoại ký sự, sđd, trg 17.
23. Hải ngoại ký sự, sđd, trg 55.
24. Hải ngoại ký sự, sđd, trg 42.
25. Hải ngoại ký sự, sđd, trg 106.
26. Hải ngoại ký sự, sđd, trg 9.
27. Hải ngoại ký sự, sđd, trg 37-38.
28. Hải ngoại ký sự, sđd, trg 44-45.
29. Hải ngoại ký sự, sđd, trg 169.
30. Hải ngoại ký sự, sđd, trg 426.
31. Hải ngoại ký sự, sđd, trg 169.
Bình luận bài viết