Tin tức

NÓI CHUYỆN CHUYÊN ĐỀ: “KHÁI QUÁT VỀ KINH TẠNG A-HÀM”

NÓI CHUYỆN CHUYÊN ĐỀ:

“KHÁI QUÁT VỀ KINH TẠNG A-HÀM”

 

Tin ảnh: TRÍ BÁ

 


Cư sĩ Minh Ngọc

 

Sáng 10/11/2018 (nhằm ngày mùng 4 tháng 10 năm Mậu Tuất), tại Chùa Phật học Xá Lợi, Cư sĩ Minh Ngọc, Phó Trường Ban Phật học Chùa PH Xá Lợi, đã có buổi nói chuyện về đề tài “Khái quát về kinh tạng A-hàm”

Theo Cư sĩ Minh Ngọc, khi nói đến kinh A-hàm là để chỉ  bốn bộ Trường A-hàm, Trung A-hàm, Tăng Nhất A-hàm và Tạp A-hàm. Đây là hệ thống kinh điển Nguyên thuỷ thuộc Bắc truyền Phật giáo. Từ “A-hàm” là phiên âm Hán Việt của từ Agama trong tiếng Phạn. Hán dịch của từ Agama có rất nhiều như: Thú vô, Pháp quy, Vô tỷ pháp, Truyền giáo,...

A-hàm là hệ thống giáo lý căn bản của Phật giáo thời kỳ đầu. Đây là thời kỳ giáo pháp còn nhất vị, sự truyền thừa những lời dạy của Đức Phật chỉ là hình thức khẩu tụng. Nhưng vì các đệ tử của Ngài tiếp thu và có những kiến giải không đồng, nên giáo đoàn dần dần có sự phân chia thành bộ phái và mỗi bộ phái đều có những tư tưởng khác nhau. Vì thế vấn đề xác lập, chỉnh lý và thống nhất các giáo thuyết của Đức Phật là một việc làm tất yếu và cần thiết. Nhờ đó, các giáo thuyết của Ngài được hoàn bị, dần dần phát triển thành một hình thức văn học riêng biệt và cuối cùng trở thành Thánh điển. Đó là nguyên do của sự hình thành kinh tạng A-hàm. Nhưng kinh tạng A-hàm chính thức được thành lập từ lúc nào thì phải căn cứ vào số lần kết tập kinh điển để tìm hiểu.

- Lần kết tập thứ nhất: Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn được bảy ngày, có vị Tỷ khiêu là Bạt Nan Đà vui mừng nói: “Các người chớ có buồn, đức Thế Tôn diệt độ thì chúng ta được tự do. Ông già ấy trước đây thường bảo chúng ta làm thế này, không nên làm thế kia, nhưng từ nay về sau thì tuỳ ý chúng ta hành động” (Kinh Trường A-hàm). Vì thế, để xác chứng những lời dạy của Đức Phật khi còn tại thế là đúng và nhằm ngăn chặn những hành động phóng túng có thể xảy ra về sau, nên Tôn giả Đại Ca Diếp đã triệu tập 500 vị A La Hán tại hang Thất Diệp, trong thành Vương Xá, thuộc nước Ma Kiệt Đà để kết tập kinh điển lần thứ nhất.

Đại hội kết tập này do Tôn giả Đại Ca Diếp là thượng thủ, Tôn giả A Nan tụng phần Kinh tạng, Tôn giả Ưu Ba Ly tụng phần Luật tạng. Kết quả là Kinh tạng Nguyên thủy được hình thành bằng tiếng Magadhi, đây là loại ngôn ngữ thông dụng nhất của nước Ma Kiệt Đà. Vì thế Kinh tạng Nguyên thuỷ bằng tiếng Magadhi được xem là tiền thân của Kinh tạng Pàli, tức hệ Nikaya và Kinh tạng Sanskrit, tức hệ A-hàm về sau. Kỳ kết tập này mới chỉ ở hình thức khẩu tụng, chưa được ghi chép bằng văn tự.

- Kỳ kết tập thứ hai: Đến khoảng 100 năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn (khoảng thế kỷ V trước TL), dưới thời vua Kalasoka xảy ra vấn đề bất đồng quan điểm về giới luật trong giáo đoàn. Để duy trì truyền thống giới luật Nguyên thuỷ mà Đại hội kết tập lần thứ nhất đã xác quyết, Tôn giả Da Xá (Yasa) đã triệu tập 700 vị A La Hán, họp ở thành Tỳ Xá Ly (Vesali) để xác minh lại phần giới luật, và khẳng định mười điều giới luật của nhóm Tỷ khiêu Bạt Kỳ là phi pháp. Kỳ kết tập này cũng chưa được ghi chép bằng văn tự mà chỉ ở hình thức khẩu tụng.

Tuy nhiên, một điều đáng chú ý là trong kỳ kết tập lần thứ hai này, do bất đồng quan điểm giữa hai nhóm cấp tiến và bảo thủ mà giáo đoàn bị phân chia thành hai bộ phái: Phái bảo thủ số lượng ít hơn, nhưng gồm toàn các vị Trưởng lão, nên gọi là Thượng Tọa bộ (Theravada), do Tôn giả Da Xá lãnh đạo; phái cấp tiến số lượng đông hơn và gồm những vị trẻ tuổi, nên gọi là Đại Chúng bộ (Mahasamghika), do nhóm Tỷ khiêu Bạt Kỳ lãnh đạo.

Trên bước đường truyền bá và phát triển, do bất đồng quan điểm mà nội bộ của phái Thượng Tọa bộ lại có sự phân chia thành hai bộ phái mới là Thượng Tọa bộ, chủ trương lấy Kinh tạng làm cơ sở và Nhất thiết Hữu bộ (Sarvativasda), gọi tắt là Hữu bộ với chủ trương lấy Luận tạng làm bản vị.

- Kỳ kết tập thứ ba: Sau đức Phật nhập niết bàn khoảng 236 năm, tức là vào thời vua A Dục, tại thành Hoa Thị, dưới sự chủ tọa của ngài Mục Kiền Liên Tử Đế Tu, cuộc kết tập lần thứ 3 đã được tổ chức, đến đây ba Tạng Giáo Pháp mới được hoàn thành.

- Kỳ kết tập thứ tư: Sau khi Phật nhập diệt 400 năm, dưới sự hộ trì của Vua Ca-nị-sắc-ca, đại chúng tập hợp tại nước Ca-thấp-di-la, cử Hiếp Tôn giả và ngài Thế Hữu làm thượng thủ, cử hành kiết tập lần thứ tư. Lần kiết tập này chủ yếu là luận thích Tam Tạng.

Tóm lại, Kinh A-hàm được tụng vào lúc kiết tập lần thứ nhất, từ lần kiết tập thứ hai về sau, tức vào khoảng thế kỷ III trước Tây lịch là thời kỳ Kinh A-hàm chính thức được hình thành.

Về hình thức và số lượng, kinh A-hàm  được ghi chép thành bốn bộ là:

1. Trường A-hàm (Dìghàg Agama): Toàn kinh có 22 quyển, 30 kinh. Nội dung chia làm bốn phần, trong đó: Phần thứ nhất nói về bản thuỷ và sự tích của Đức Phật; phần thứ hai nói về việc tu tập các hạnh và cương yếu giáo pháp của Phật thuyết; phần thứ ba nói về các luận nạn đối với ngoại đạo và dị thuyết; phần thứ tư ghi chép về tướng trạng khởi nguyên của thế giới. Kinh này tương đương kinh Trường Bộ của hệ Nikaya.

2. Trung A-hàm (Madhyam Agama): Gồm có 60 quyển, chia làm 5 tụng, 18 phẩm và 222 kinh. Nội dung chủ yếu lấy việc tự thuật giáo nghĩa của Đức Phật và các đệ tử là chính. Thỉnh thoảng cũng nói về những điều răn dạy của Đức Phật với các đệ tử, các bậc vương giả, cư sĩ và ngoại đạo. Kinh này tương đương với kinh Trung Bộ của hệ Nikaya.

3. Tăng Nhất A-hàm (Ekttairk Agama): Toàn kinh có 51 quyển, chia làm 52 phẩm, 472 kinh. Nội dung ban đầu nói phẩm Tựa, thuật lại chuyện Tôn giả A Nan truyền tụng kinh điển, sự kết tập của kinh này, nhân duyên Ưu Đa La thụ pháp, … Sau đó nương theo thứ tự tăng dần của các pháp số mà phân loại và gom tập. Tăng Nhất A-hàm là kinh được thành lập muộn nhất trong hệ thống A-hàm. Kinh này tương đương với kinh Tăng Chi Bộ của hệ Nikaya.

4. Tạp A-hàm (Samyukt Agama): Gồm 51 quyển, 1362 tiểu kinh. Nội dung tương đương với kinh Tương Ưng Bộ của hệ Nikaya. Tạp A-hàm là kinh được thành lập sớm nhất trong trong hệ A-hàm.

Sau phần trình bày của cư sĩ Minh Ngọc, các thành viên Ban Phật học đã cùng nhau trao đổi để hiểu sâu thêm về nguồn gốc các bộ kinh A-hàm.

Dưới đây là vài hình ảnh về buổi nói chuyện.

 

Nghe diễn giả thuyết trình

Cùng nhau trao đổi

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Những áng mây trắng - Thơ: Hoang Phong - Diễn ngâm: Hồng Vân
    • Mẹ ơi - Thơ: Thích Phước Hạnh - Nhạc: Hoàng Lan
    • Khúc ca Tịnh Độ - Lời: Thích Phước Hạnh - Nhạc: An Sơn
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 46
    • Số lượt truy cập : 6127131