Tin tức

TQ10 - PHẬT GIÁO VÀ NHỮNG QUAN NIỆM VỀ HẠNH PHÚC - TỰ DO

PHẬT GIÁO VÀ NHỮNG QUAN NIỆM VỀ HẠNH PHÚC - TỰ DO

NGUYỄN HỮU NGUYÊN

 

Riêng về Phật giáo, ở  đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có Phật giáo Bắc tông, Nam tông người Việt và Nam tông người Khmer, phái Khất sĩ - ngoài ra còn nhiều tín ngưỡng địa phương khác. Mỗi tông phái của Phật giáo có nét riêng về giáo luật, về hoạt động tín ngưỡng, về kiến trúc chùa chiền, về trang phục và ẩm thực... nhưng đều theo triết lý của Phật giáo nguyên thủy - người ta thường ví đại thừa và tiểu thừa như hai con thuyền, một lớn một nhỏ nhưng đều đưa con người hướng về bến bờ tự do, hạnh phúc.

Vì vậy bài viết này không khai thác những khía cạnh khác nhau về hình thức giữa Bắc tông, Nam tông người Khmer và Nam tông người Việt ở ĐBSCL - mà muốn tìm hiểu sự thống nhất trong đa dạng về quan niệm hạnh phúc và tự do của triết lý Phật học và của loài người nói chung.

1- Quan niệm về  hạnh phúc và tự do của triết lý Phật học.

Mục đích của Phật giáo là “thực sự mưu tìm hạnh phúc” và triết lý đi tìm hạnh phúc được thể hiện rõ qua lý thuyết về “Tứ thánh đế” - gồm các nội dung cụ thể sau:

- Khổ Thánh Đế: Khổ, sự không hài lòng, không thỏa mãn, áp lực căng thẳng (stress)

- Tập Khổ Thánh Đế: Nguyên nhân cuả sự không thỏa mãn này là sự ham muốn (tanha) nhục cảm, muốn trở thành, muốn không trở thành

- Diệt Khổ Thánh Đế: Từ bỏ ham muốn

- Đạo diệt khổ thánh đế: Bát chánh đạo gồm: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.

Tứ thánh đế thực chất là logic về “nhân quả” - trên cơ sở xác định “nỗi khổ” của con người có nguyên nhân từ sự “ham muốn” mang tính nhục cảm - do đó muốn “thoát khổ” thì phải từ bỏ những ham muốn đó bằng cách rèn luyện cả về nhận thức và hành vi.

Về nhận thức: Phải rèn theo “bát chánh đạo” - gồm: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.

“Bát chánh đạo” được cho là: “Một tập hợp các phẩm chất cá nhân cần tu dưỡng”. Mối quan hệ của các yếu tố ấy được giải thích như sau: “Sự phát triển chánh kiến, và chánh tư duy (các yếu tố được xác định đồng nhất với trí huệ và sự chiếu kiến) tạo điều kiện cho sự phát triển của chánh ngữ, chánh nghiệp, và chánh mạng (các yếu tố đạo đức). Khi đức hạnh phát triển thì các yếu tố đồng nhất với định (chánh tinh tấn, chánh niệm, và chánh định). Cũng như thế khi chánh định viên mãn, trí huệ tiến hóa vào mức càng sâu hơn...” .

Con đường dẫn đến Giác ngộ bắt đầu từ “hành động trong chánh kiến - nhận thức giúp minh định được giá trị của Tứ Thánh Đế và và nguyên lý của nghiệp. Con người bắt đầu nhận ra rằng hạnh phúc tương lai cuả mình không phải do số phận tiền định, mà cũng không phải phó mặc cho đấng thiêng liêng hay may rủi - mà nằm trên chính đôi vai cuả họ. Biết được điều này... thì ước muốn cuộc sống công chính, hành động cẩn trọng...”.

Từ cách lý giải này có thể suy ra logic của “bát chánh đạo” là: Trí tuệ (chánh kiến và chánh tư duy) - tạo ra đạo đức (chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng) - khi đạo đức viên mãn thì con người được hạnh phúc (chánh định)

Về hành vi: Phải thực hiện “ngũ giới”: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không dùng chất độc hại (rượu, ma tuý). Riêng phái Khất sĩ, quan niệm về hạnh phúc, tự do là phải trở thành người “vô sản tuyệt đối” - với cuộc sống khổ hạnh để giải thoát khỏi tham, sân, si, mạn, nghi...     Như vậy, triết lý về hạnh phúc của Phật giáo là “bát chánh đạo” và “ngũ giới” - tức là phải có trí tuệ và đạo đức trong nhận thức và trong hành vi. Quan niệm về tự do của Phật giáo là không còn bị ràng buộc bởi các ham muốn nhục cảm (tham, sân, si, mạn, nghi) Từ đó có thể nói: Với Phật giáo, hạnh phúc chính là tự do và ngược lại tự do là hạnh phúc. 

2- Quan niệm hạnh phúc và tự do trong đời sống xã hội.

Quan niệm “hạnh phúc” của con người trong đời thường là: Sự hài lòng về cuộc sống vật chất và tinh thần. Tuy nhiên, sự hài lòng lại không có “tiêu chuẩn” chung - vì con người không giống nhau về tính cách, về nhận thức và sự cảm nhận - người xưa đã nói “bách nhân - bách tính” - đó chính là tính đa dạng và phức tạp của quan niệm hạnh phúc trong đời thường. Ngay trong một con người, cảm giác hạnh phúc cũng không ổn định vì cuộc sống luôn bị tác động bởi sự biến đổi của hoàn cảnh khách quan và các yếu tố chủ quan: Có lúc khỏe, lúc yếu, làm ăn khi lợi, khi khó khăn nên có lúc vui, lúc buồn...

Cấu trúc xã hội là “bách nhân, bách tính” - trong đó có hai loại tính cách đối lập nhau:

Loại thứ nhất là những người mà “thiện” là tính “trội” - tố chất của họ là nhân hậu, bao dung, độ lượng, ít tham vọng vật chất, chỉ thụ hưởng những gì do mình làm ra, nên dễ bằng lòng với cuộc sống mặc dù không giàu có. Loại người này tìm thấy niềm vui từ sự giúp đỡ người khác và những giá trị tinh thần “chân, thiện, mỹ”. Chính vì thế, họ cảm thấy “thanh thản” và hạnh phúc.

Loại tính cách thứ hai là những người mà “ác” là tính “trội” - tố chất của họ là ích kỷ hẹp hòi, luôn đố kỵ, ganh ghét, khó bằng lòng với cuộc sống mặc dù rất giàu có. Dường như họ có chỉ cảm thấy bằng lòng khi hơn người khác về tài sản, tiền tài, danh vọng - thậm chí họ thích chèn ép, tước đoạt tài sản của người khác.

Ngoài hai loại tính cách trái ngược nhau kể trên còn có rất nhiều loại tính cách với mức độ thiện và ác khác nhau - điều đó phản ánh tính đa dạng và phức hợp về quan niệm và cảm nhận hạnh phúc trong xã hội loài người.

Từ những thực tế nêu trên có thể đưa ra nhận định: Nếu quan niệm hạnh phúc của Phật giáo thiên về tinh thần, tâm linh - thì quan niệm hạnh phúc của đời thường lại thiên về yếu tố hưởng thụ vật chất nhiều hơn - vì vậy hạnh phúc của đời thường không tách rời “ấm no” - và còn có câu “có thực mới vực được đạo”.

Quan niệm về tự do trong đời sống xã hội không chỉ như của Phật giáo là thoát khỏi tham, sân, si - mà còn rất nhiều đòi hỏi khác như: tự do cư trú, tự do ngôn luận, tự do đi lại, tự do thân thể, tự do lựa chọn...

Đặc điểm cơ bản của xã hội loài người là vừa mang tính “cộng sinh”, vừa mang tính “cạnh tranh sinh tồn” ngày càng gay gắt. Thực tế lịch sử xã hội loài người là cuộc đấu tranh liên tục giữa cái thiện chống lại cái ác để giành lại quyền lợi vật chất và cuộc sống tự do bị kẻ ác chiếm đoạt. Đó là các cuộc khởi nghĩa của nông nô từ thời chiếm hữu nô lệ đến các cuộc khởi nghĩa nông dân chống lại giai cấp phong kiến bóc lột địa tô, đến những cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc giành độc lập dân tộc và những cuộc cách mạng của vô sản đánh đổ giai cấp tư sản bóc lột... Tất cả các hình thức đấu tranh đều có mục tiêu là mưu tìm hạnh phúc và tự do cho con người, cho quốc gia, dân tộc. 

3- Nhiều con đường đi tìm tự do, hạnh phúc.

Không phải chỉ có đạo Phật đi tìm hạnh phúc và tự do mà hầu như tất cả các tôn giáo, tín ngưỡng trên thế giới đều hướng đến điều đó nhưng bằng những niềm tin và triết lý khác nhau:

Đạo Phật coi tu dưỡng bản thân để thoát khỏi ham muốn nhục cảm và hướng đến cái thiện là đạt đến hạnh phúc và tự do.

Ky tô giáo tin vào Chúa Trời che chở, dẫn dắt và đem lại hạnh phúc cho mọi người.

Hồi giáo tôn thờ Thánh Ala...

Rất nhiều các tín ngưỡng khác, niềm tin được đặt vào một vị Thần linh luôn che chở và đem lại hạnh phúc cho cả cộng đồng của họ. 

Sự đa dạng về tôn giáo, tín ngưỡng cho thấy tự do và hạnh phúc là mục tiêu chung nhưng có rất nhiều con đường riêng để tìm đến - giống như rất nhiều dòng sông lớn, nhiều dòng suối nhỏ, từ nhiều hướng cùng chảy ra biển cả. 

Bên ngoài tôn giáo, tự do và hạnh phúc cũng là mục tiêu, lý tưởng đấu tranh của các nhà tư tưởng, các nhà hoạt động cách mạng... họ lãnh đạo các giai cấp và các dân tộc vùng lên đấu tranh chống áp bức bóc lột. Ngay từ thời nô lệ đã bùng nổ nhiều cuộc khởi nghĩa chống giới chủ nô - điển hình như khởi nghĩa do người anh hùng Spartacus lãnh đạo. Dưới chế độ phong kiến, các cuộc khởi nghĩa nông dân diễn ra liên tục ở khắp nơi chống lại sự áp bức bóc lột dã man của các lãnh chúa. Đến chế độ tư bản chủ nghĩa, phong trào công nhân đấu tranh chống giai cấp tư sản bóc lột đã liên kết trên phạm vi toàn thế giới...

Đấu tranh vì tự do, hạnh phúc còn diễn ra rất quyết liệt bằng các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc để thoát khỏi sự cai trị của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ và kiểu mới - điển hình như cuộc kháng chiến 30 năm của Việt Nam, cuộc đấu tranh không mệt mỏi của người Palestin... Tất cả các hình thức và mức độ đấu tranh vô cùng đa dạng ấy đều hướng đến một mục tiêu chung là tự do, hạnh phúc.

***

Thực tế nêu trên cho thấy có muôn vàn con đường và cách thức mưu tìm tự do và hạnh phúc cho con người - mỗi con đường có những triết lý và niềm tin riêng đồng thời cũng có những khó khăn trở lực khác nhau - nhưng tất cả những trở lực ấy đều có chung một mục tiêu là phải chiến thắng những kẻ độc ác ở ngoài xã hội và chiến thắng cái vị kỷ bên trong từng con người - trong đó, triết lý của Phật giáo là một phương cách giúp những ai muốn chiến thắng những ham muốn nhục cảm và tính vị kỷ bên trong con người của mình.

Tóm lại, có hàng trăm tôn giáo, tín ngưỡng, hàng trăm chủ nghĩa, lý thuyết... đều nhằm dẫn dắt con người đi tìm tự do, hạnh phúc. Các cuộc cách mạng, các cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc cũng nhằm mục tiêu đó. Vì vậy, tất cả không mâu thuẫn với nhau về bản chất và mục đích. Do đó, những kiểu xung đột tôn giáo, hay sự đối lập giữa chính trị với tôn giáo đều làm tổn hại đến cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác trong xã hội loài người.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 14)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 13)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 12)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 361
    • Số lượt truy cập : 7079975