TQ10 - TINH THẦN NHẬP THẾ CỦA MỘT TÔN GIÁO XUẤT THẾ TRONG “CƯ TRẦN LẠC ĐẠO” CỦA TRẦN NHÂN TÔNG
TINH THẦN NHẬP THẾ CỦA MỘT
TÔN GIÁO XUẤT THẾ TRONG “CƯ TRẦN LẠC ĐẠO” CỦA TRẦN NHÂN TÔNG
HOÀNG THI THƠ
Phật giáo là một tôn giáo xuất thế, song ngay trong xuất thế đã hàm chứa tinh thần nhập thế. Đó là biện chứng của mối quan hệ tôn giáo với cuộc đời, tôn giáo với dân tộc, tôn giáo với quốc gia... Tinh thần xuất thế của Phật giáo có đặc trưng là khuynh hướng giản thần quyền, khoan dung và đề cao tính tự giác của con người cá nhân. Tinh thần nhập thế là thế mạnh riêng của Phật
giáo ra đời thế kỷ VI trước Công nguyên (TCN) như một tôn giáo xuất thế. Biện chứng độc đáo này đã giúp Phật giáo vượt qua Bà La Môn giáo và trở thành quốc giáo dưới thời vua Asoka (thế kỷ III TCN) và phát triển thịnh vượng ở Ấn Độ cho đến tận thế kỷ VII rồi lan tỏa sang nhiều nước, và Phật giáo đã tới Việt Nam khoảng đầu Công nguyên.
Đỉnh cao nhập thế của Phật giáo Việt Nam là thời Trần với điển hình là vua Trần Nhân Tông đồng thời là sáng tổ của Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử - đại diện cho Phật giáo Đại Việt thời Trung đại. Sự vận dung tinh thần nhập thế thành triết lý đạo đi vào đời, đạo tức cuộc đời, đạo giữa cuộc đời của Vua - Phật Trần Nhân Tông đã phát huy được sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh tôn giáo trước những nguy cơ và thách thức lớn của thời đại, làm nên những trang sử hào hùng của thời Trần.
Đến nay, trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, Phật giáo Việt Nam tiếp tục giải bài toán biện chứng xuất thế mà nhập thế để khẳng định vai trò tôn giáo dân tộc, tôn giáo truyền thống của Việt Nam.
Tinh thần nhập thế của một tôn giáo xuất thế
Phật giáo ra đời khoảng thế kỷ thứ VI TCN ở Ấn Độ, đáp ứng những đòi hỏi căn bản của cuộc sống tinh thần và cả những đòi hỏi của xã hội Ấn Độ nhằm khắc phục xu hướng thần quyền cực đoan của Bà La Môn giáo lúc đó. Có thể nói, lúc đầu Phật giáo chưa hẳn là một tôn giáo, mà là một trào lưu tư tưởng chống lại bất bình đẳng về niềm tin tôn giáo bởi sự phân biệt đẳng cấp nghiệt ngã, chống lại tập tục sát sinh trong các tế lễ của Bà La Môn thần quyền. Phật giáo thường được coi là một tôn giáo xuất thế, lánh đời, song xem xét kỹ, tinh thần nhập thế ngay trong Phật giáo Nguyên thủy đã là một lập trường mang tính nhân văn tiến bộ, thể hiện tập trung nhất trên phương diện cách mạng tín ngưỡng, niềm tin tôn giáo của Phật giáo. Xuất thế là một xu hướng của nhiều tôn giáo đương thời, nhưng đức Phật lại xây dựng một tôn giáo có tinh thần nhập thế vì chủ trương bác bỏ vị trí thần thánh tối thượng của đẳng cấp Bà La Môn đương chính thống, chống lại tục sát sinh trong các lễ tế và luận chứng cho tính bình đẳng về niềm tin tôn giáo của mọi chúng sinh trong “bể khổ” cuộc đời.
Tư tưởng Vô ngã của Phật giáo là một cuộc cách mạng tư tưởng tôn giáo vĩ đại lúc đó, được xây dựng trên cơ sở học thuyết Duyên khởi, Vô thường khẳng định mọi chúng sinh đều bình đẳng như nhau về nỗi khổ và khả năng thoát khổ. Theo đó, đức Phật khẳng định Tôn giáo và giải thoát không phải chỉ dành riêng cho đẳng cấp Bà La Môn chỉ vì xuất thân có tính thần thánh. Phật giáo mở ra niềm tin giải thoát bình đẳng cho tất cả mọi người không phân biệt xuất thân, đẳng cấp, giàu nghèo, nam, nữ... Trên con đường đó, mỗi người đều bình đẳng về niềm tin giải thoát và phải tự đi, tự đến, tự tu hành để giác ngộ được vô ngã, tức là thoát được vô minh về chính tồn tại vô thường của bản thân mình. Đức Phật đã tiếp thu có chọn lọc và đổi mới từ Bà La Môn giáo khi kêu gọi rằng: Ai chiến thắng được sự ràng buộc của ngã và vượt qua vô minh bằng trí tuệ (Tuệ), đạo đức (Giới) và thiền định (Định) đều được coi là Bà La Môn.[1]Như vậy, Đức Phật đã đưa thêm nghĩa mới vào khái niệm Bà La Môn, mở rộng khái niệm này theo khuynh hướng nhập thế để xây dựng cho Phật giáo những phẩm chất đạo đức, trí tuệ và tu dưỡng của giác ngộ và giải thoát. Như vậy, Phật giáo đã mở rộng con đường tôn giáo cho cả những tầng lớp trước đó không được hưởng quyền lợi và dịch vụ tôn giáo, chẳng hạn như đẳng cấp sudra và phụ nữ đều có thể có niềm tin tôn giáo và hy vọng tu dưỡng để vươn tới giải thoát. Sự đổi mới này đã đáp ứng đúng nguyện vọng tôn giáo, tâm linh của đại đa số người Ấn Độ lúc đó. Do vậy, chỉ trong khoảng ba thế kỷ, từ thế kỷ VI TCN đến thế kỷ III TCN, Phật giáo đã từ một tôn giáo không chính thống (trong 9 dasanas) trở thành tôn
giáo chính thống dưới triều vua Asoka và phát triển thịnh vượng cho tới thế kỷ VII sau công nguyên, và phát triển mạnh ra ngoài Ấn Độ thành tôn giáo lớn ở châu Á và ngày nay đang là một trong những tôn giáo thế giới.
Cuộc cách mạng tín ngưỡng (niềm tin tôn giáo) của đức Phật theo khuynh hướng nhập thế, nói theo cách khác là giản/giảm thần quyền, thành công ở Ấn Độ và đã buộc Bà La Môn giáo phải cách tân các quy tắc tôn giáo khắc nghiệt và giảm bớt tính thần quyền của đẳng cấp Bà La Môn. Kết quả là đến thế kỷ thứ V-VI, Bà La Môn giáo đã tự đổi thành Hindu giáo, theo nghĩa tôn giáo dành cho người Hindu, tức là tôn giáo của tất cả người Ấn Độ chứ không còn là của riêng đẳng cấp Bà La Môn. Sự đóng góp này của Phật giáo mang ý nghĩa nhập thế rất nhân văn của một tôn giáo xuất thế.
Phật giáo đã khởi đầu một phong trào vị nhân sinh, đưa tôn giáo trở về với con người phi thần thánh khi cho rằng mọi người đều bình đẳng như nhau về nỗi khổ (bát khổ) và bình đẳng như nhau về khả năng giải thoát khỏi khổ, không loại trừ, kể cả giai cấp Bà La Môn tự cho là thần thánh. Phật giáo khẳng định giải thoát là do chính con người trở về với chính mình (nội quán), thực hiện bằng đạo đức (giới), trí tuệ (tuệ) và niềm tin (định), chứ không phải do thần thánh hay bậc siêu nhiên nào ban phát. Con người cũng như mọi sinh linh đều yêu quý sự sống, do vậy trên con đường tới giải thoát không thể vì lý do cao cả nào mà tước đi sự sống của bất kỳ sinh linh, dù nhỏ bé, tầm thường nào... mà phải trân trọng chúng như đối với sự sống của chính mình. Như vậy, xuất thế nhưng chống lại thần quyền, bảo vệ sự sống chúng sinh, và tin tưởng vào con đường tự giác nội quán của mỗi người là độc đáo của Phật giáo như một tôn giáo xuất thế.
Tính nhân văn của Phật giáo đã khiến vua Asoka (thế kỷ III TCN) chọn Phật giáo làm quốc giáo, và từ Ấn Độ, Phật giáo bắt đầu lan tỏa, phát triển thành tôn giáo khu vực châu Á. Tinh thần nhập thế của tôn giáo xuất thế vẫn liên tục được phát triển giúp Phật giáo hội nhập với các tôn giáo bản địa khác một cách hòa bình. Có lẽ cũng khoảng thời gian đó vua Asoka cử chín phái đoàn truyền giáo sang các nước láng giềng, đó cũng là lúc Phật giáo Ấn Độ đã du nhập vào Việt Nam. Bằng chứng là phái đoàn thứ chín do sứ giả Sona và Uttara đã đến truyền giáo ở Tam Giác Vàng (Suvannabhumi) còn được ghi lại trong kinh Mahavamsa[2].
Trong lịch sử phát triển Phật giáo, khuynh hướng nhập thế này không ngừng tiến triển theo mỗi tông phái, mỗi địa phương mà Phật giáo du nhập, điển hình nhất là theo dòng Đại thừa phát triển liên tục cho tới Thiền Tông ở Trung Quốc.
Có thể khẳng định Đại thừa là sự tiếp tục tinh thần nhập thế của Phật giáo như một tôn giáo xuất thế. Từ cách nhìn này, có thể thấy tư tưởng cơ bản gây ra sự phân nhánh phái Phật giáo thành Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Theravada/ Hinayana) chính là chú trọng hơn vào phương tiện (thừa) giải thoát nhỏ (Tiểu) hay lớn (Đại) cho một người hay nhiều người. Edward Conze (2005) trong Lược sử Phật giáo đã nêu nhận định về nhập thế của Đại thừa như một khuynh hướng chống lại kinh viện “... một bên là những người xem Phật pháp như phương tiện để tạo ra một số ít các vị A La Hán sống cách biệt trong các tự viện với sự nghiêm trì giới luật, và bên kia là những người muốn gia tăng khả năng mang lại sự giải thoát cho những người bình thường...”[3]. Khuynh hướng tư tưởng này chủ trương tinh thần tự do, không câu nệ kinh điển, giới luật mà chú trọng khai thác tư tưởng giải thoát thâm sâu của giáo lý đối với số đông chúng sinh. Con đường rộng đó được gọi là Đại thừa. Như vậy, một lần nữa Đại thừa đại diện cho Phật giáo đã tiếp tục phá vỡ khuôn mẫu cứng nhắc của đạo xuất gia, lánh đời, mà Phật giáo Nguyên thủy đã tiếp thu trực tiếp từ Bà La Môn giáo và các tôn giáo đương thời ở Ấn Độ, từ đó xây dựng một phương hướng giải thoát tích cực, sống động hơn, rộng mở hơn, đặc biệt cho mô hình Phật tử tại gia (cư sĩ). Tư tưởng mới của Đại thừa chú trọng mô hình lý tưởng của Bồ tát, cho rằng tu hạnh Bồ tát là con đường lớn: Trên cầu đạo Bồ Đề để tự giải thoát, đồng thời vẫn không lánh đời để có thể hóa độ, giải thoát cho tất cả chúng sinh.
Sự phát triển của tư tưởng Bồ tát Đại thừa khi vào Trung Quốc đã tích hợp với Nho và Lão - Trang trên cơ sở hoàn thiện lý luận Phật học về Tính Không của bản thể và Bát Nhã của nhận thức đã tiếp biến thành Thiền tông với điển hình là các Thiền sư có phẩm chất trí tuệ và đạo đức của Bồ tát, vừa cứu đời vừa tự tại siêu việt với đời, vừa đạt tới giải thoát viên mãn. Như vậy là vẫn tiếp tục khuynh hướng nhập thế của Phật giáo.
Thiền tông Trung Quốc buổi đầu từ Ấn Độ du nhập sang vẫn chú trọng thiền định và kinh điển, nhưng sau đó chia thành hai hướng: một hướng Thần Tú triển khai theo lối xuất gia, tu tập thiền định nghiêm ngặt để dần dần (tiệm ngộ) giác ngộ; một hướng Huệ Năng phát huy phong cách “vô chấp”, “vô trụ” vào kinh điển và ngồi thiền định, nhưng coi trọng “kiến tính thành Phật” ngay lập tức (đốn ngộ). Từ đó, phát triển thành một phong trào của các vị thiền sư tu tập và giác ngộ ngay trong các vấn đề của “chúng sinh” nơi trần thế. Tinh thần nhập thế của Thiền Huệ Năng rất rõ trong lời dặn các đệ tử trước khi nhập vô dư Niết bàn: “... nếu biết rõ chúng sinh tức thấy được Phật tính. Nếu không biết chúng sinh, muôn kiếp tìm không gặp Phật. Các ông thấy được tự tâm chúng sinh, tất nhiên thấy được tự tâm Phật tính. Muốn thấy Phật phải biết chúng sinh. Chỉ vì chúng sinh mê Phật chứ không phải Phật mê chúng sinh.”[4]
Nhập thế của Phật giáo Việt Nam
Trong buổi đầu du nhập vào Việt Nam, Phật giáo đã góp phần bổ sung nội dung tôn giáo giải thoát hướng nội, tinh thần vị tha, từ bi, bác ái, khoan dung cho hệ thống đạo đức và tín ngưỡng bản địa của người Việt lúc đó còn khá đơn giản và chưa phát triển tới hình thức tôn giáo dân tộc và quốc giáo. Trong thời kỳ du nhập đầu tiên này, văn hóa dân tộc Lạc Việt đã tiếp thu Phật giáo từ hai ngả, trực tiếp từ Ấn Độ và gián tiếp qua Trung Quốc. Qua tiến trình giao lưu, chọn lọc các tri thức và tín ngưỡng của khu vực, một hệ tư tưởng Tam - giáo (Phật-Nho-Lão) của người Việt đã hình thành qua nhiều thách thức sống còn của dân tộc. Phật giáo đã khẳng định được thành tựu, rõ nhất là chống Bắc thuộc, chống Hán hóa thành công. Như vậy là Phật giáo đã nhập thế, bước đầu đồng hành cùng dân tộc Việt, thành công xuất sắc.
Khi đất nước độc lập, từ thời nhà Đinh (thế kỷ X) cho đến thời nhà Trần (thế kỷ XIII), Phật giáo tiếp tục khẳng định uy tín và vai trò đạo đức, chính trị và xã hội của nó đối với nhà nước non trẻ, như một điểm tựa ý thức tự cường và như một công cụ tinh thần dân tộc khi tích hợp kiến thức Phật học với Nho học và Lão Trang nhằm đáp ứng các nhiệm vụ nhập thế: Kiến thiết, quản lý, bảo vệ và phát triển nhà nước Đại Việt cũng như bảo vệ chủ quyền đất nước. Như vậy, Phật giáo đã có vị thế như quốc giáo[5], nhưng vẫn là một tôn giáo xuất thế. Trong quãng thời gian cần khẳng định bản lĩnh dân tộc đó, đã xuất hiện nhiều nhà sư nổi tiếng uyên bác cả tam giáo, thông thạo cả Phạn, Hán và Nôm đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển đất nước của các triều đại, không chỉ về tín ngưỡng, tâm linh, mà cả về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa. Phật giáo bác học được khẳng định và chính thức hóa nhưng luôn gắn liền với các vấn đề thế sự của dân tộc. Nhiều nhà sư trở thành cố vấn cho nhà vua về đường lối chính trị, quân sự, văn hóa với các chức như Tăng thống, Tăng lục hay tước hiệu như Khuông Việt, Quốc Sư... nhưng không hề màng địa vị, họ vẫn giữ được khoảng cách (xuất thế) với quyền lực chính trị (thế quyền). Sự toàn thịnh của Phật giáo đạt tới đỉnh cao vào thời Lý - Trần cũng đồng thời là đỉnh cao lịch sử của Đại Việt, và khuynh hướng nhập thế của Phật giáo vẫn tiếp tục được khẳng định. Phật hoàng Trần Nhân Tông là một điển hình hội tụ của sự kết hợp xuất thế - nhập thế của Phật giáo.
Thiền tông đặc biệt có sức hấp dẫn đối với người Việt Nam có lẽ cũng bởi tính nhập thế đặc biệt đó.
Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, cho đến khi hình thành tông phái riêng của Phật giáo Đại Việt, đã có ba dòng thiền du nhập từ Ấn Độ và Trung Quốc là Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường. Cũng đã có những dòng Phật giáo Tiểu thừa du nhập vào Việt Nam từ Ấn Độ hay Trung Quốc, nhưng một phần do tâm lý và tính văn hóa đặc trưng của người Việt nên cuối cùng các dòng Thiền của Phật giáo Đại thừa ngày càng thắng thế. Dưới thời nhà Trần (1226–1400) Phật giáo Đại Việt với tư cách tôn giáo chính thống của riêng Việt Nam hình thành, đó là Thiền Trúc Lâm Yên Tử do vua Trần Nhân Tông sáng lập. Đây là một mốc son của Phật giáo Việt Nam. Có thể nói, từ khi du nhập tới đỉnh cao thành tựu Thiền tông Trúc Lâm Yên Tử đời Trần, khuynh hướng nhập thế của Thiền tông được lựa chọn, cụ thể hóa trong phong cách của người Việt và thể hiện thành triết lý “cư trần lạc đạo” ở Phật hoàng Trần Nhân Tông.
Từ góc độ vấn đề nhập thế, nhìn lại lịch sử du nhập Phật giáo Việt Nam ta thấy, khi Lạc Việt còn phụ thuộc phương Bắc, Luy Lâu (Giao Châu) đã là một trung tâm Phật giáo, vốn có trước Bành Thành và Lạc Dương, có sức hấp dẫn nhiều thiện giả và thiền sư Trung Quốc. Mâu Tử (160-230), một thiện giả Trung Quốc viết tác phẩm Mâu Tử Lý Hoặc Luận ở Giao Châu (khoảng 198) đã nêu những kiến giải đầu tiên về Phật giáo thông qua nhãn quan Nho và Lão, đã có đoạn thừa nhận tính vượt trội về giá trị nhập thế của đạo đức Phật giáo so với Nho và Lão trong cuộc sống:
... báo trước sự việc hàng vạn năm, nhưng lại toàn là điều cần thiết của muôn đời.... Phật đã sửa sang mặt ngoài cái to rộng ấy, và chẻ tách từ bên trong sự vắng vẻ, thẳm sâu, kỳ diệu của nó, không cái gì là không qua được sự sắp đặt của Phật [6].
Mâu Tử đã đánh giá cao tính lý luận và thực tiễn của Phật giáo, cho rằng Phật giáo là Đạo theo nghĩa vừa rộng vừa cụ thể: “...bản chất của Đạo là ở nhà có thể thờ cha mẹ, làm chủ một nước có thể trị dân, riêng bản thân có thể sửa mình. Đem thực hành thì đầy kín cả trời đất, bỏ không dùng thì tiêu tán nhưng chẳng lìa”[7]. Phật giáo được coi như con đường tri thức về lẽ sống chết, linh hồn, và đặc biệt là để sửa mình... nên giá trị nhập thế của nó đối với đời sống được Mâu Tử đề cao “như vén mây thấy mặt trời, soi đuốc vào nhà tối vậy”[8]. Hoặc qua sáu bức thư của Đạo Cao và Pháp Minh là hai “Giao Châu Pháp sư” trao đổi với Lý Miễu, đại diện của Nho giáo phương Bắc, cho thấy sự chống đối, bài bác của Nho đối với Phật giáo ở Giao Châu, đã phản ánh phần nào thực tế Phật giáo đang trở thành một nguy cơ lấn át đối với Nho và Lão mà phong kiến phương Bắc đang muốn sử dụng để đồng hóa người Việt lúc đó.
Như vậy, ngay trong thời kỳ mới du nhập, và Việt Nam còn bị đô hộ bởi Phong kiến Trung Quốc phương Bắc, Phật giáo vẫn khẳng định được vị thế vượt trội so với hai tôn giáo chính thống của Trung Quốc (Nho và Lão). Điều đó không phải dễ dàng, mà chính là do giá trị nhập thế của Phật giáo đối với cuộc sống và thời cuộc hơn hẳn Nho và Lão đối với nhu cầu thực tiễn của người Việt Nam lúc đó.
Tới các triều đại độc lập buổi đầu, Phật giáo không ngừng phát huy tinh thần nhập thế, như thế mạnh ưu trội của nó khi tham gia vào các lĩnh vực ngoài tôn giáo. Thuận lợi đầu tiên là hầu hết các vua đều sùng và am hiểu Phật học. Họ còn coi trọng và sử dụng nhiều tăng sĩ uyên bác làm cố vấn chính trị, quân sư, ngoại giao, nhờ vậy Phật giáo Thiền không những tiếp tục được duy trì mà còn phát triển trong giới trí thức, trong triều đình cũng như ở làng quê. Các tông phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường tiếp tục phát triển những vấn đề Phật học và Thiền học khá sôi nổi về: Phật tính, tức tâm tức Phật, mọi chúng sinh đều có Phật tính, kiến tính thành Phật, tiệm ngộ, đốn ngộ, v.v..[9]. Tuy các chủ đề này còn thiếu tính hệ thống, song điểm chung là đều luận giải về các vấn đề cơ bản của Phật giáo qua Nho, Lão và theo xu hướng nhập thế.
Do vậy, cho tới khi hình thành Thiền Trúc Lâm Yên Tử thời nhà Trần, Phật giáo Việt Nam đã có một sự phát triển liên tục mà tinh thần gắn kết đạo với đời luôn được trăn trở bởi các nhà tư tưởng Phật giáo, mà Trần Nhân Tông là một tập hợp, tích hợp đỉnh cao của cả quá trình đó. Các nhà tư tưởng của thời Trần đa phần là các nhà Phật học uyên thâm cả Nho, Lão và tinh thần nhập thế của họ luôn thể hiện qua sự kết hợp Tam giáo. Đây cũng là một đặc trưng của Phật giáo Đại Việt. Phật giáo được ưa chuộng, đề cao không phải ngẫu nhiên hay tùy tiện, mà đó chính là sự phản ánh vai trò hiệu quả của Phật giáo trong các vấn đề thực tiễn của cuộc sống qua tương quan so sánh với Nho và Lão. Phật giáo thời Trần bắt đầu khẳng định tư cách độc lập, trên những vấn đề của người Việt, dân tộc Đại Việt. Hơn nữa, Phật giáo bắt đầu được trình bày, thể hiện bằng chữ Nôm của người Đại Việt. Điển hình là các trước tác tiếng Nôm về Phật giáo của nhà vua Trần Nhân Tông, trong đó có bài phú "Cư trần lạc đạo".
Đạo giữa đời thường trong “Cư Trần Lạc Đạo” của Trần Nhân Tông
Bài phú “Cư trần lạc đạo” của vua Trần Nhân Tông được viết khi Người đã lui khỏi ngôi, vào núi Yên Tử (8/1299) lập tông Trúc Lâm Yên Tử, tập trung nghiên cứu Phật pháp, luyện thiền định, tập hợp những kiến giải sâu sắc về đạo và đời, và đó cũng là những định hướng phát triển cho Phật giáo Đại Việt thời đó. “Cư trần lạc đạo” là sự phản ánh truyền thống nhập thế từ các thế hệ vua ông Trần Thái Tông, vua cha Trần Thánh Tông và sư phụ Tuệ Trung Thượng Sĩ, xa hơn nữa là từ các dòng thiền ngoại nhập Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường truyền vào Việt Nam trước đó.
Trần Thái Tông (1218-1277) - vua ông, rất sùng Phật, thành tâm đến với Phật và luôn khẳng định rằng: “Phật không chia Nam Bắc, đều có thể tu mà tìm; tính người có trí ngu, cũng nhờ giác ngộ mà thành đạt”, còn đối với thiên hạ, “phương tiện dẫn dụ đám người mê muội; con đường sáng tỏ lẽ tử sinh, ấy là đại giáo của đức Phật”, do vậy với tư cách một vị quân vương thì sự kết hợp Nho-Phật là hợp lý: “... lẽ nào trẫm không coi trách nhiệm của tiên thánh là trách nhiệm của mình, giáo lý của đức Phật là giáo lý của mình ư!”[10]. Bởi vì khi Trần Thái Tông bỏ ngai vàng đi tìm Phật thì giác ngộ ra rằng “Trong núi vốn không có Phật, Phật ở ngay trong lòng” và dù có tìm thấy Phật ở trong núi thì làm sao kết hợp được tu hành với lợi ích chung của cả quốc gia “...tính kế tự tu đã vậy, nhưng còn quốc gia xã tắc thì sao?”[11]. Lựa chọn cuối cùng của nhà vua vẫn là trách nhiệm với trăm dân là trên hết: “Phàm đã là bậc nhân quân, tất phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình.”[12]. Các tác phẩm của Trần Thái Tông chủ yếu là những tổng kết và suy ngẫm về lịch sử Phật giáo cũng như Thiền học rất uyên thâm và đánh giá sự cần thiết của Phật giáo đối với sự tu dưỡng của chúng sinh. Tinh thần nhập thế của Phật giáo từ Trần Thái Tông đã được tiếp nối bởi các thế hệ tiếp theo.
Trần Thánh Tông (1240-1291) - vua cha, cũng sùng Phật, uyên thâm cả Nho và Lão. Trần Thánh Tông đã cùng vua con là Trần Nhân Tông thực hiện thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông và mở rộng bờ cõi phía Tây và phía Nam. Sau khi đất nước ổn định, ông nhường ngôi cho con và lên núi theo dòng Thiền Yên Tử nghiên cứu kinh Phật. Kế thừa vua ông và vua cha, Trần Nhân Tông cũng cố gắn kết uy quyền chính trị và giá trị nhân văn (xuất thế) của tôn giáo trong một vị quân vương (thế quyền).
Bên cạnh Trần Nhân Tông còn có một người thầy - một vị cư sĩ Phật giáo, một thiền sư - văn võ toàn tài có công lớn trong kháng chiến chống quân Nguyên, sắc sảo, uyên bác, và nổi tiếng về tinh thần phóng khoáng “vô chấp”, “vô trụ” của Thiền tông đời Trần. Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230–1291) là người có cách ứng xử điển hình về quan hệ đạo với đời. Thượng Sĩ không cố công giải thích ý nghĩa của Đạo hay đời bằng lý luận mà là kết hợp Đạo với đời ngay trong cuộc sống sinh động. Thượng Sĩ chú trọng phá khoảng cách giữa lý luận và thực tế, khoảng cách giữa Đạo và đời. Ông hiểu rằng đó là cái bẫy khiến người ta theo đuổi những tìm kiếm thái quá dẫn tới mê lầm, kệch kỡm[13]. Phương châm “buông xả” “không cần niệm Phật, chẳng cần thiền”, của Thiền tông mà ông đề cao cũng là nhằm phá bỏ khoảng cách giữa Đạo và đời. Có thể nói, Trần Nhân Tông là sự kết hợp cân bằng, tích hợp giữa vua ông, vua cha và sư phụ của mình trong xu hướng kết hợp đạo với đời.
“Cư trần lạc đạo” còn là hướng kết hợp giữa một vị chân tu với nhà chính trị khôn ngoan mà bản thân cuộc đời Trần Nhân Tông là một thể hiện sống động. Ông là nhà ngoại giao kiên định và tài ba, luôn tỉnh táo đặt lợi ích bền vững của dân tộc lên trên hết; là nhà quân sự thiên tài liên tiếp hai lần đánh bại quân Nguyên Mông vừa hung dữ vừa ở thế nước lớn... giữ vững “âu vàng” của Đại Việt; là nhà chính trị sáng suốt không chỉ mau chóng ổn định kinh tế trong nước sau chiến tranh, đưa Đại Việt trở thành phong lưu, an bình, mà còn mở mang quan hệ với các nước láng giềng phía Nam, phía Tây; Đặc biệt, theo gương cha và ông, Trần Nhân Tông sớm nhường ngôi cho con khi đất nước đã tạm lắng yên các nguy cơ bị ngoại xâm, để xuất gia vào núi Yên Tử tu hành, xây dựng dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, phát huy Phật giáo Đại Việt. Nhà vua được tôn là “Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật” và dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử do Ngài sáng lập đánh dấu một bước ngoặt trong việc sáng lập một Phật giáo Đại Việt.
“Cư trần lạc đạo” được dịch nghĩa là “ở đời mà vui đạo”[14].Cụm từ này đã được vua - Phật Trần Nhân Tông chọn để đặt tên của một bài phú bằng tiếng Nôm nổi tiếng của Ngài. “Cư trần lạc đạo” có nghĩa là giác ngộ ngay giữa cuộc đời, giác ngộ không phải là xa lánh cuộc đời hay quên đời. Đối với nhà vua thì đạo chính là dân tộc, đạo chính là cuộc đời. “Cư trần lạc đạo” là quan điểm của Trần Nhân Tông với tư cách một vị vua - lãnh tụ của đời sống dân tộc, đồng thời một là tổ Thiền Trúc Lâm Yên Tử - lãnh tụ về Đạo. Cụ thể hơn có thể nói, đó là sự tích lũy, tổng hợp, khái quát liên tục từ chính cuộc đời của vua ông, vua cha, sư phụ và của chính mình như một “vua-Phật” đa trách nhiệm với dòng tộc, với triều đình, dân tộc với cả quốc giáo; vừa như một vị vua có trách nhiệm với sự mất còn, hưng thịnh của đất nước, vừa như một vị lãnh tụ dẫn dắt tinh thần và tâm linh của trăm dân, vừa như một vị quốc sư, tài ba tập hợp nên khối đoàn kết toàn dân tộc, vừa là một lãnh tụ tôn giáo xây dựng một Phật giáo Đại Việt thống nhất.
Ý nghĩa của xuất thế - nhập thế trong thiền - cuộc sống trong "Cư Trần Lạc Đạo" chính là tinh thần “tự tại”, “tự nhiên”, “vô trụ”, “vô chấp”, “Phật tại tâm” của Thiền tông Đại Việt.
"Cư trần lạc đạo" trở thành triết lý nhập thế tích cực khi vua Trần Nhân Tông lui khỏi ngai vàng (Giáp Ngọ -1294). Lúc đó, nhà vua đã xuất gia, nhưng vẫn tiếp tục tham gia trực tiếp nhiều hoạt động chính trị, quân sự và tôn giáo. Về chính trị - quân sự, nhà vua đã xuất gia nhưng vẫn thân chinh “viễn du hóa độ cho các nước lân bang, phía Nam đến tận Chiêm Thành, đã từng khất thực ở trong thành...” (1295), bằng ngoại giao mềm dẻo lấy được 2 châu Ô, Lý - một vị trí chiến lược quân sự quan trọng trong quan hệ với Trung Quốc và các nước phía Nam (1306), còn tham gia quyết định nhiều quyết sách của triều đình. Về tôn giáo, vua đã thảo thư để sứ giả Đại Việt sang Trung Quốc xin Đại tạng kinh, mở các pháp hội để giảng kinh và bố thí, “đi khắp xóm làng để giáo hóa và trừ bỏ các việc thờ cúng bậy, dạy cho họ thực hành 10 điều thiện”. Về kết hợp chính trị - tôn giáo, nhà vua đã kêu gọi các quan lại trong triều “phải dùng 10 điều thiện để làm “quốc pháp”, làm “quốc chính” và kết quả là vua “Anh Tông dâng biểu thỉnh Thượng hoàng về Đại Nội, xin thọ tại gia Bồ tát tâm giới... Vương công bắt các quan đều cùng thọ giới”[15]. Như vậy, cả triều đình Đại Việt đều sống theo tinh thần “cư trần lạc đạo” và mở ra một phong trào Phật tử cư sĩ trong triều đình nhà Trần. Lê Mạnh Thát đã nhận định về thành công của tư tưởng "Cư trần lạc đạo" của đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông là: “Triều đình Đại Việt là một triều đình Phật giáo và người dân Đại Việt là những Phật tử”[16].
Cư trần lạc đạo của Phật Hoàng Trần Nhân Tông đã trở thành một triết lý nhập thế linh hoạt: Đạt đạo ngay giữa đờicủa Phật giáo Đại Việt, thổi thêm sức sống cho Phật giáo tăng trưởng vừa như là một tôn giáo truyền thống của dân tộc, “hòa quang đồng trần” cùng dân tộc Đại Việt; vừa như tôn giáo chính thống làm công cụ tinh thần để đoàn kết và thống nhất cả dân tộc đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác; vừa như một sức sống nội sinh của dân tộc thể hiện trên nhiều mặt kinh tế, chính trị, xã hội của Đại Việt thời Trần.
Tóm lại, tinh thần nhập thế của “Cư trần lạc đạo” mà Trần Nhân Tông khái quát nên đã mở ra một phong trào tích cực của Phật giáo Việt Nam: Kết hợp phát triển cả tăng sĩ và cư sĩ, đặc biệt coi trọng vai trò cư sĩ trong các hoạt động chính trị, ngoại giao, nghệ thuật của Phật giáo với tư cách tôn giáo dân tộc, theo phương châm luôn đặt lợi ích dân tộc lên trên hết. Triết lý kết hợp đạo với đời thể hiện rõ hơn tính nhân văn, đặc trưng khoan dung, vị tha, của Phật giáo Đại Việt, mà Trần Nhân Tông đã chắt lọc từ Phật giáo và kết hợp với truyền thống dân tộc Việt thể hiện thành định hướng đặc trưng của Phật giáo Việt Nam. Từ đó đến nay, tinh thần nhập thế của “Cư trần lạc đạo” đã trở thành một khuynh hướng lành mạnh để Phật giáo luôn đồng hành cùng dân tộc trong thời chiến cũng như trong thời bình, trong kiến thiết xây dựng cũng như trong giao lưu, hội nhập kinh tế và văn hóa, và Phật giáo thực sự đóng vai trò là một tôn giáo dân tộc. Phật giáo Việt Nam thời Trần đã được đánh giá như một hệ thống tư tưởng đáp ứng đúng nhu cầu thực tiễn của dân tộc Đại Việt và cũng trở thành phương thức sống của Phật giáo Việt Nam.
Có thể nói, cứ mỗi lần phục hưng, chấn hưng là một lần Phật giáo Việt Nam trở lại và tiếp tục triển khai tinh thần nhập thế của “Cư trần lạc đạo” để phát huy sức nội sinh của dân tộc Việt trong Phật giáo truyền thống. Ngày nay, triết lý “Cư trần lạc đạo” của Phật giáo Việt Nam càng có cơ hội phát huy tính tích cực của Phật giáo dân tộc trong hình thức các thể chế xã hội công dân (civil society) để tham gia vào các hoạt động xã hội, thậm chí các hoạt động chính trị, kinh tế của toàn dân.
Bình luận bài viết