TQ10 - TINH THẦN PHÁ CHẤP, MỘT NÉT ĐẸP TRONG THƠ THIỀN CỦA PHẬT HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG
TINH THẦN PHÁ CHẤP, MỘT NÉT ĐẸP TRONG THƠ THIỀN
CỦA PHẬT HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG
HỒ TẤN NGUYÊN MINH
Trong nền thi ca cổ điển Việt Nam, Trần Nhân Tông được xem là một hoàng đế - thiền sư - thi sĩ vĩ đại có những đóng góp quan trọng cho hành trình vận động và phát triển của văn chương dân tộc. Tầm vóc văn học của Trần Nhân Tông được thể hiện với hai tư cách: Hoàng đế - thi sĩ và thiền sư – thi sĩ. Là một ông vua làm thơ, Trần Nhân Tông chịu ảnh hưởng sâu sắc hào khí Đông A và tinh thần thời đại. Là một nhà sư làm thơ, thơ Trần Nhân Tông mang đậm tư tưởng cởi mở, phóng khoáng của Phật giáo thời Trần nói chung và Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử nói riêng. Đặc biệt, hào khí thời Trần và vẻ đẹp độc đáo của Phật giáo thời Trần đã quyện hòa một cách tuyệt diệu trong thơ Trần Nhân Tông tạo nên một tinh thần phá chấp triệt để thể hiện qua hình ảnh một con người phóng khoáng, dám mạnh mẽ phá bỏ lối mòn cũ kĩ của tư duy, khai thông tư tưởng, tìm đến với một lối suy nghĩ sáng suốt và mới mẻ. Không câu nệ quá nhiều vào khuôn thước, không phụ thuộc quá nhiều vào giáo lý, tự tìm cho mình một con đường riêng, một lối đi riêng để tự giác ngộ.
Cội nguồn triết học của tinh thần phá chấp trong thơ Trần Nhân Tông có lẽ xuất phát từ phương pháp chứng ngộ “trực chỉ nhân tâm”, “kiến tính thành Phật” và chủ trương “cầu chư kỷ vô cầu chư ngoại” (truy cầu nơi bản thân mình, không truy cầu bên ngoài) của Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma. Sau này, Lục Tổ Huệ Năng, nhân vật chủ chốt của phái Thiền Nam Trung Hoa đúc kết thành lời dạy “ bồ đề chỉ hướng tâm giác, hà lao hướng ngoại cầu huyền?” (bồ đề chính chỉ hướng giác ngộ nơi tâm, sao lại nhọc nhằn đi cầu điều huyền ở bên ngoài). Tiếp thu yếu chỉ Thiền Tông, các nhà thơ thời Lý -Trần và đặc biệt là Trần Nhân Tông kêu gọi con người từ bỏ vọng niệm, loại trừ thị phi, quay về với bản tâm để “minh tâm kiến tính”, tự mình ngộ đạo. Họ cho rằng “tu hành chỉ là giam cầm sự ưu việt của trí tuệ” (Cảm hoài – Bảo Giám), chỉ có những con người mê muội, lầm lạc mới đi cầu Phật, cầu Thiền ở bên ngoài. Con người sáng suốt phải là con người tự thân vận động, tùy duyên tùy tục. Tinh thần này được Trần Nhân Tông thể hiện trọn vẹn trong bài phú Nôm Cư trần lạc đạo mà đỉnh cao là bài kệ kết thúc tác phẩm:
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền.
(Cư trần lạc đạo phú)
(Ở nơi cõi trần mà vui với lẽ đạo, hãy cứ tùy duyên
Đói thì ăn, mệt thì ngủ
Trong nhà có của báu, đừng tìm kiếm đâu xa
Đứng trước cảnh mà vô tâm thì không cần hỏi Thiền nữa)
(Bài phú ở đời vui đạo)
Con người ở đây tự giác khơi dậy tiềm lực của mình, đói thì ăn, buồn ngủ thì ngủ, không câu chấp, cũng không bị lệ thuộc vào bất cứ điều gì. Không phải cứ xuất gia tu hành, trì giới khổ hạnh hay khổ công tìm kiếm nơi thâm sơn cùng cốc thì mới thấy được cảnh giới chân như. Con người phải “tùy duyên nhậm vận” thì mới đạt tới sự giác ngộ. “Tùy duyên nhậm vận” tức là không cầu giải thoát, không tìm an lạc, không nuối tiếc quá khứ, không trông ngóng tương lai, cứ thuận theo tự nhiên, để cho cái tôi bản thể của mình tự do hiển lộ.
Để có thể “tùy duyên nhậm vận”, con người phải ở trạng thái “đối cảnh vô tâm”, tức phải có cái tâm “ưng vô sở trụ”. Chẳng phải tìm Phật ở đâu xa, Phật ở ngay trong tâm mình. Kẻ thức giả phải là người biết soi rọi bản thể, thổi lớp bụi vô minh để tìm viên minh châu quý giá của Phật tính. Còn nếu cứ chăm chăm tìm cách thoát khỏi bể khổ thì là con đường sai lầm chỉ chuốc thêm phiền não mà thôi. Chân lý không xuất hiện từ ngoại giới, chân lý nằm ngay trong tâm mỗi người “trong nhà có báu tìm đâu nữa?”. Cái chính là phải “ vô tâm đối cảnh”, tức là trước mọi biến dịch bên ngoài, cái tâm hoàn toàn an nhiên, dứt trừ mọi vọng niệm, từ bỏ tham sân si để kiến tính thành Phật.
Tư tưởng “Phật tính tự tâm” và phương pháp tu tập “tự giác đốn ngộ” nhiều lần được Trần Nhân Tông diễn tả rất tự nhiên và sinh động trong toàn bộ Cư trần lạc đạo phú:
Thửa (biết) mình học, cho phải chính tông
Chỉn (chỉ) bụt là lòng, xá ướm hỏi đòi cơ Mã Tổ.
(Hội thứ ba)
Bụt ở trong nhà
Chẳng phải tìm xa
Nhân khuấy bổn (quên gốc) nên ta tìm Bụt
Đến cốc hay chỉn Bụt là ta.
(Hội thứ năm)
Săn hỷ xả, nhuyễn từ bi
Nội tự tại kinh lòng hằng đọc
Rèn lòng làm bụt, chỉn xá tua một sức dồi mài
Đãi cát kén vàng, còn lại phải nhiều phen lừa lọc.
(Hội thứ tám)
Trong bài kệ kết thúc Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, Trần Nhân Tông diễn tả một cách xuất sắc trạng thái tĩnh tại tuyệt đối của cái tâm đạt đạo, ở ngoài danh lợi, rũ bỏ thị phi. Hai chữ “Thanh nhàn” đối với ông còn đáng quý hơn cả vạn nén vàng, hơn tất cả mọi cảnh sống giàu sang, nhung lụa.
Cảnh tịch an cư tự tại tâm,
Lương phong xuy đệ nhập tùng âm.
Thiền sàng thụ hạ nhất kinh quyển
Lưỡng tự thanh nhàn thắng vạn câm.
(Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca)
(Cảnh lặng, sống yên, lòng tự tại
Gió mát thổi đến dưới bóng cây thông
Giường thiền ở dưới gốc cây, kinh một quyển
Thanh nhàn hai chữ, đáng muôn đồng).
Tìm một lối đi mới cho tư duy, Trần Nhân Tông kiên quyết chối bỏ cái nhìn nhị kiến phân biệt phàm – thánh, mê – ngộ, tốt – xấu, niết bàn – trần tục... Trước Nhân Tông, người thầy của ông là Tuệ Trung Thượng Sĩ cho rằng “Chẳng cần lễ Phật, cũng chẳng cần lễ tổ” (Tụng cổ) vì “Phật và chúng sinh cùng một bộ mặt, đều mày ngang, mũi dọc mà thôi” (Phàm thánh bất dị). Thậm chí, Tuệ Trung còn phá chấp đến mức phóng cuồng khi đập vỡ thái độ bám víu vào khái niệm, cho rằng tu tập mà quá câu chấp vào giáo lý kinh điển thì cũng giống như “ra vào đống phân ngựa/nghiên tầm vũng nước trâu”. Đến Trần Nhân Tông, một lần nữa ông đả phá giáo điều, nâng con người lên ngang tầm với Phật:
Tích nhân nghì, tu đạo đức, ai hay này chẳng Thích Ca
Cầm giới hạnh, đoạn ghen tham, chỉn thực ấy là Di Lặc.
(Cư trần lạc đạo phú - Hội thứ tư)
Mày ngang mũi dọc, tướng tuy lạ xem ắt bằng nhau
Mặt thánh lòng phàm, thực cách nhẫn vân vân thiên lí.
(Cư trần lạc đạo phú - Hội thứ mười)
Bàn về lẽ “có” - “không”, Trần Nhân Tông cho rằng, một khi còn phân chia vọng niệm, tức còn vướng bận chuyện thành bại, được mất thì con người còn mãi đau khổ. Để tâm hồn bình yên tuyệt đối phải hiểu lẽ “sắc tức thị không, không tức thị sắc”, đạt đến chỗ vô phân biệt.
Hữu cú vô cú,
Điêu điêu, đát đát.
Tiệt đoạn cát đằng,
Bỉ thử khoái hoạt.
(Hữu cú, vô cú)
(Câu hữu, câu vô,
Khiến người rầu rĩ.
Cắt đứt mọi duyên như dây leo,
Thì hữu và vô đều thông suốt).
(Câu hữu, câu vô)
Thiên kiến nhị phân chính là hàng rào ngăn cản sự phát triển của tư duy, là sợi dây trói buộc tự do con người. Nguồn gốc của mọi đau khổ là do phân biệt, kén chọn mà ra. Con người mong muốn đạt được cái này mà tránh cái kia cho nên sinh ra dục vọng. Mà dục vọng chính là căn nguyên của mọi đau khổ. Nếu từ bỏ nhị kiến tức là có một cái nhìn bình đẳng, không còn đối đãi trên – dưới, sang – hèn, phải – trái... thì sẽ không còn đau khổ nữa.
Quan niệm “Phật tại tâm”, chủ trương quay về bản thể mà tự thắp sáng trí tuệ, Trần Nhân Tông phản đối tư tưởng vọng ngoại tìm chân lý.
Thùy phục cánh tương cầu giải thoát
Bất phàm, hà tất mịch thần tiên?
Viên nhàn, mã quyện, nhân ưng lão
Y cựu vân trang nhất tháp thiền.
(Sơn phòng mạn hứng I)
(Ai trói buộc mà tìm cách giải thoát
Không là phàm tục, còn cần gì phải đi kiếm thần tiên?
Vượn nhàn, ngựa mỏi, người cũng về già
Vẫn y như xưa một chiếc giường thiền ở nơi am mây).
(Mạn hứng ở sơn phòng I)
“Tìm giải thoát” là lầm, “kiếm thần tiên” là mê, con người nếu không muốn mãi đắm chìm trong mê muội thì phải mạnh mẽ từ bỏ chấp trước, đem lại sự giải phóng hoàn toàn cho bản tâm. Và khi bản tâm hoàn toàn thanh thản thì con người mới có thể giác ngộ. Bài thơ tỏa sáng vẻ đẹp triết lý, đưa con người từ chỗ “vô minh” trở thành một con người hoàn toàn tự do.
Con người trong sáng tác của Trần Nhân Tông không thoát ly thực tại mà tích cực nhập thế giúp đời, gắn liền với những lo toan trần thế. Bậc chân tu không nhất thiết phải xuống tóc quy y, tham thiền, thuyết pháp thì mới đạt đạo. Con người vẫn có thể “ngộ chân như” giữa bao nhiêu biến động của cuộc sống trần tục. Đây là chủ thuyết “cư trần lạc đạo” mà Trần Nhân Tông đề xướng và cũng là một trong những nền tảng tư tưởng quan trọng của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Nó giúp chúng ta lí giải được tại sao ngay cả khi đã xuất gia trên non cao Yên Tử, Trần Nhân Tông vẫn nặng lòng với việc dân, việc nước, vẫn lo nghĩ cho tương lai dài lâu của dân tộc. Hành trình tư tưởng của Trần Nhân Tông là “dĩ Nho nhập Thích”. Người Phật tử không lãng quên cuộc sống mà hòa mình vào cuộc sống, làm tròn trách nhiệm đối với cuộc sống.
Sạch giới lòng, chùi giới tướng, nội ngoại nên Bồ tát trang nghiêm:
Ngay thờ chúa, thảo thờ cha, đi đỗ mới trượng phu trung hiếu.
(Cư trần lạc đạo phú – hội thứ sáu)
Vâng ơn thánh, xót mẹ cha, thờ thầy học đạo;
Mến đức cồ, kiêng bùi ngọt, cầm giới ăn chay.
(Cư trần lạc đạo phú – hội thứ sáu)
Trong bản thể Trần Nhân Tông dường như cùng lúc tồn tại hai con người: Con người Nho và con người Thiền. Hai con người này quyện hòa vào nhau và thăng hoa thành một vẻ đẹp đặc biệt. Con người Nho dù đang chỉ huy đánh giặc hay đang điều hành chính sự vẫn không lúc nào quên điều khiển chân tâm theo triết lý Thiền để tâm hồn trở nên tiêu dao tự tại. Con người Thiền dù đang suy tư triết học hay đang thả hồn vào cõi thinh không vẫn không lúc nào quên nghĩ chuyện giúp thế. Vĩ đại và bí ẩn, yêu đời và siêu thoát, đó chính là những mặt vừa đối lập, vừa bổ sung cho nhau trong con người Trần Nhân Tông.
Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tất;
Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thực cả đồ công.
(Cư trần lạc đạo phú – hội thứ ba)
Sinh vô bổ thế trượng phu tàm.
(Họa Kiều Nguyên Lãng vận)
(Sống không giúp thế trượng phu buồn)
(Họa thơ Kiều Nguyên Lãng)
Có thể nói, tinh thần phá chấp triệt để; sự phóng khoáng, cởi mở trong tư tưởng cũng như sự hành đạo tích cực của Trần Nhân Tông đã tạo dựng cho Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử một cơ sở triết học vững chắc, làm học phái này nói riêng và Phật giáo thời Trần nói chung mang một vẻ đẹp mới mẻ và thiết thực. Vẻ đẹp ấy thăng hoa trong thơ thiền Trần Nhân Tông tạo nên một ý vị riêng sâu sắc và đầy độc đáo.
Bình luận bài viết