Học

PHPT2 K.VI - Bài thứ 3: A NAN CẦU PHẬT DẠY PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH, LẦN THỨ HAI

PHẬT HỌC PHỔ THÔNG QUYỂN 2

Sa môn THÍCH THIỆN HOA

KHÓA VI: TRIẾT LÝ ĐẠO PHẬT HAY LÀ ÐẠI CƯƠNG KINH LĂNG NGHIÊM

Bài thứ 3: A NAN CẦU PHẬT DẠY PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH, LẦN THỨ HAI

 

I. A NAN CẦU PHẬT DẠY PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH LẦN THỨ HAI

Ông A Nan đã bảy lần chỉ tâm đều không trúng, vì ông chấp vọng tưởng làm tâm, nên bị Phật bác cả. Lần thứ hai ông đứng dậy chắp tay kính lạy, cầu Phật chỉ dạy phương pháp tu hành để thoát ly sanh tử luân hồi. 

A Nan thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Con là em Phật, tuy đã xuất gia, mà vẫn còn ỷ lại lòng thương yêu của Phật chỉ lo học rộng nghe nhiều, không chuyên tu niệm, nên không chứng được đạo quả, chẳng hàng phục nổi tà chú của ngoại dạo Ta Tỳ Ca La; trái lại, còn bị Ma Đăng Già bắt vào phòng dâm... phải nhờ Phật cứu độ. Vậy cúi xin Phật từ bi chỉ dạy cho con phương pháp tu hành, để phá trừ ác kiến và chứng thành đạo quả. 

Thưa thỉnh xong, A Nan và đại chúng đều kính cẩn và trông chờ lời Phật chỉ dạy. 

II. PHẬT GẠN HỎI TÂM LẦN THỨ HAI

Lúc bấy giờ Phật gạn hỏi lại cái “tâm” lần thứ hai, và bảo ông A Nan phải phân biệt rành rõ cái nào là chơn tâm và cái nào là vọng tâm.  

Phật dạy:

- Ông nay muốn đặng đạo vô thượng Bồ đề, thì điều cần nhứt là phải hiểu rõ hai món căn bản:  

+ Một căn bản của sanh tử luân hồi là vọng tâm. 

+ Một căn bản của Bồ đề, Niết-bàn, là chơn tâm. 

Nếu ông nhận lầm căn bản của sanh tử (vọng tâm) làm nhơn tu hành, thì không bao giờ giải thoát được. Cũng như người nhận giặc làm con, thì chỉ thêm bị phá hại gia sản của mình mà thôi. Và cũng như người nấu cát làm cơm, dầu trải bao nhiêu năm cũng chẳng thành cơm được. 

Vậy nay ông muốn biết đường lối tu hành để ra khỏi sanh tử luân hồi, thì ông hãy nghe tôi hỏi đây: 

Phật liền đưa bàn tay, co lại năm ngón và hỏi ông A Nan rằng:

- Ông có thấy không? 

A Nan đáp:

- Bạch Thế Tôn, thấy. 

Phật hỏi:

- Ông thấy cái gì? 

A Nan đáp:

- Con thấy Phật đưa bàn tay co năm ngón lại. 

Phật hỏi:

- Ông lấy cái gì để thấy và lấy cái gì làm tâm? 

III. A NAN CHẤP CÁI “SUY NGHĨ PHÂN BIỆT” LÀM TÂM

A Nan thưa:

- Con lấy “mắt” để thấy và cái “biết suy nghĩ, phân biệt” làm tâm. 

Phật quở:

- Dốt lắm, A Nan! Cái đó không phải là tâm của ông. 

LƯỢC GIẢI 

Chúng ta nên lưu ý: Thông thường ai cũng đều cho cái “suy nghĩ phân biệt” là tâm của mình, mà Phật lại nói “không phải tâm”. Vậy chúng ta cần phải chín chắn suy xét chỗ đó. 

***   

A Nan hoảng hốt, đứng dậy thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn, cái “suy nghĩ, phân biệt” này, nếu không phải là tâm của con thì gọi nó là cái gì? 

Phật dạy:

- Nó là “vọng tưởng” (vọng tâm). Bởi các ông từ hồi nào đến giờ, lầm nhận “vọng tưởng” làm “chơn tâm”, cho nên nhiều kiếp trầm luân. Như người nhận giặc làm con, nên bị giặc phá hại. 

A Nan thưa:

- Bạch Thế Tôn, con vì thương Phật nên mới xuất gia, thì con chỉ dùng cái tâm này mà thương Phật. Con phụng thờ các đức Phật trong mười phương và làm tất cả các điều công đức, cũng dùng cái tâm này. Dầu cho con có làm các điều tội lỗi, hủy báng Phật pháp, đọa vào địa ngục đi nữa, thì con cũng dùng cái tâm này. Ngày hôm nay Phật nói “nó” không phải tâm của con, như thế thành ra con không có tâm; nếu không có tâm, thì con đồng như cây, đá rồi! Cúi xin đức Thế Tôn từ bi chỉ giáo. 

Phật dạy rằng:

- Này A Nan nếu ông chấp cái “suy nghĩ, phân biệt” là tâm của ông, thì khi rời cảnh vật hiện tiền, cái tâm “hiểu biết, phân biệt” ấy, cũng vẫn còn, thế mới phải là tâm của ông. Nếu rời cảnh vật hiện tiền, mà tâm hiểu biết phân biệt ấy mất đi, thì không phải là chơn tâm của ông rồi. 

Dầu cho ông diệt hết năm tri giác bên ngoài là thấy, nghe, hay, biết (năm giác quan), chỉ còn lưu lại cái “thầm thầm phân biệt” bên trong (thức thứ sáu) thì đó cũng là cái vọng tưởng phân biệt (ý thức thứ sáu) bóng dáng pháp trần không phải là chơn tâm của ông. 

Này A Nan, tôi không bắt buộc ông phải chấp cái “suy nghĩ phân biệt” đó là không phải tâm của ông; tôi chỉ bảo ông nên chính chắn suy xét: Nếu rời cảnh vật hiện tiền, mà cái “suy nghĩ phân biệt” này vẫn còn, thì mới phải thật là chơn tâm của ông. 

Còn nếu rời khỏi cảnh vật hiện tiền, mà cái “suy nghĩ phân biệt” này cũng mất luôn đi, thì rõ ràng nó là cái “vọng tưởng phân biệt” (vọng tâm) bóng dáng của sáu trần, chớ không phải là “chân tâm thường trụ” của ông vậy.  

Nếu ông nhận cái “hư vọng phân biệt sanh diệt” (vọng tưởng) này làm tâm của ông, thì khi cảnh vật hiện tiền qua rồi, tâm ấy cũng theo cảnh vật mà diệt đi. Lúc bấy giờ thành ra ông không có tâm rồi. Nếu không có tâm, thì ông lấy cái gì để tu hành, và thành đạo chứng quả. 

Ông phải biết rằng: trong thế gian tất cả người tu hành, không được thành đạo, đều do chấp lầm cái “vọng tưởng sanh diệt” (vọng tâm) này làm chân thật (chơn tâm). 

Chính ông ngày nay cũng thế, nên tuy học nhiều mà không được quả Thánh. 

IV. A NAN CẦU PHẬT CHỈ DẠY PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH LẦN THỨ BA.

A Nan cùng đại chúng, nghe Phật nói như vậy, đều ngẩn ngơ và im lặng. 

Lúc bấy giờ ông A Nan cúi đầu lạy Phật, quỳ gối chắp tay vừa khóc lóc, vừa bạch Phật rằng:

- Con từ khi xuất gia theo Phật đến nay, vì ỷ lại là em của Phật, tin chắc sẽ nhờ oai thần Phật ban cho đạo quả, chẳng cần tu hành cực nhọc; không ngờ ai tu nấy chứng, không thể thay thế cho nhau được. 

Hôm nay con mất “bản tâm” đi rồi, thân tuy xuất gia mà tâm chẳng vào đạo, chẳng khác nào đứa cùng tử bỏ cha trốn đi. 

Nay con mới biết học nhiều mà không tu, cũng như người không học, và cũng như người nói đến đủ các thức ăn, rốt cuộc trong bụng vẫn đói. 

Bạch Thế Tôn, chúng con vì hai chướng phiền não và sở tri ràng buộc, nên không ngộ được chơn tâm. Cúi xin đức Thế Tôn thương xót kẻ bần cùng, chỉ dạy cho con phương pháp tu hành, để phát minh được tâm tánh. 

V. PHẬT CHỈ CÁI “THẤY” THƯỜNG CÒN

Khi ấy Phật kêu A Nan, dạy rằng:

- Vừa rồi ông nói “thấy năm ngón tay của ta co nắm lại”. Vậy vì sao có nắm tay? Và nhờ cái gì mà có cái thấy? 

A Nan thưa:

- Bạch Thế Tôn, nhơn bàn tay của Phật co lại năm ngón, nên mới có nắm tay, và nhờ con mắt cho nên mới có cái thấy. 

Phật hỏi:

- Vậy thì “không bàn tay chẳng có nắm tay, cũng như không con mắt thời chẳng có cái thấy”; so sánh như thế có đúng không? 

A Nan thưa:

- Bạch Thế Tôn, đúng. 

Phật dạy:

- Không đúng hẳn! Không bàn tay thì không có nắm tay thì phải, còn không con mắt, chẳng phải cái “thấy” không có.  

Ông nên ra ngoài đường hỏi thử những người mù mắt: “Các người có thấy cái gì không?”, thì họ đều trả lời với ông rằng: “Chỉ thấy tối đen”. Như thế thì rõ ràng: người mù không có con mắt, mà cái “thấy” cũng vẫn còn.  

Đây là cái bằng chứng: Mặc dù con mắt không có, và trần cảnh đối trước có tối và sáng khác nhau, nhưng cái thấy lúc nào cũng có (nói cái thấy là đại diện cho năm giác quan). 

A Nan thưa:

- Người mù thấy tối, thì sao gọi là thấy được?  

VI. PHẬT CHỈ TÂM LẦN THỨ NHỨT

Phật hỏi A Nan:

- Người sáng mắt ở trong nhà tối thấy tối, cùng với người mù mắt thấy tối, vậy hai cái tối đó có khác nhau không?  

A Nan thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không khác. 

Phật hỏi:

- Người trong nhà tối thấy tối, nếu có người đem đèn vào, họ thấy được các vật, vậy cái đèn thấy hay con mắt thấy? 

A Nan thưa:

- Mắt thấy chớ không phải đèn thấy. 

Phật dạy:

- Cũng thế, người mù mắt khi lột mây rồi, thấy được cái cảnh vật, đó là tâm thấy chớ không phải mắt thấy.  

Phật dạy tiếp:

- Cái đèn chỉ làm cho sáng các vật, còn cái thấy là con mắt (dụ cho tâm) chớ không phải đèn (dụ con mắt). Lên một từng nữa: con mắt chỉ làm cho tỏ rõ các vật, còn cái thấy là tâm, chớ không phải con mắt (đây là lần thứ nhứt Phật chỉ tâm). 

A Nan và đại chúng nghe Phật giảng dạy như thế rồi, đều im lặng, nhưng trong tâm thật chưa hiểu, nên đều kính cẩn chắp tay, để chờ Phật chỉ dạy thêm. 

LƯỢC GIẢI 

Trong đoạn này, xin nói thêm tỷ dụ này cho dễ hiểu: Con mắt của người cũng như bóng đèn điện, còn cái “thấy” của người cũng như điện. Khi dây đứt (dụ dây thần kinh đứt) bóng hư (dụ mắt mù) thì đèn không cháy, chớ không phải điện mất (không cái thấy). Đến khi thay bóng mới nối dây lại, thì điện cháy trở lại: không phải do bóng hay do dây mới có điện. 

Cái “thấy” của người cũng thế: khi mắt bị mây che thì chỉ thấy tối, chớ không phải cái “thấy” mất, đến khi lột mây rồi, thì cái “thấy” hiện ra, không phải do con mắt mới có cái thấy. Đoạn này Phật chỉ rõ cái “thấy” là tâm. 

VII. PHẬT CHỈ TÂM LẦN THỨ HAI

Khi đó Phật đưa bàn tay lên, năm ngón co lại rồi mở ra và hỏi ông A Nan:

- Ông có thấy cái gì không? 

A Nan thưa:

- Thấy Phật đưa tay lên co vào, rồi mở ra. 

Phật hỏi:

- Tự cái tay của ta co mở, hay “cái thấy” của ông co mở? 

A Nan thưa:

- Tự tay Phật co mở, chớ “cái thấy” của con không co mở. 

Phật khen:

- Phải lắm. 

Phật lại phóng một đạo hào quang trên vai phía mặt của A Nan: A Nan liền xoay đầu ngó về phía bên mặt. Phật lại phóng hào quang trên vai phía trái của A Nan; A Nan xoay đầu ngó qua phía trái. 

Phật hỏi:

- Cái đầu của ông hôm nay tại sao xoay qua lắc lại như vậy? 

A Nan thưa:

- Vì Phật phóng hào quang trên hai vai của con, nên con xoay qua lắc lại để xem. 

Phật hỏi:

- Vậy cái đầu của ông lắc, hay cái thấy của ông lắc? 

A Nan thưa:

- Tự cái đầu con xoay qua lắc lại, chớ cái thấy của con không có xoay lắc. 

Phật hỏi:

- Cái nào động, cái nào tịnh? 

A Nan thưa:

- Cái đầu của con có động và tịnh (dừng) chớ cái thấy của con không có động và tịnh. 

Phật nói:

- Phải 

Phật dạy tiếp:

- Cái nào có co, có mở, có động, có tịnh, có sanh, có diệt, thì cái đó là vọng, thuộc về “khách” không phải ông. Còn cái nào không động tịnh, co mở, không sanh diệt, thì cái đó là “chơn”, thuộc về “chủ” chính là ông. Như thế chơn và vọng rất rõ ràng, ông còn chưa hiểu hay sao! 

Tại sao từ hồi nào đến giờ, các ông cứ nhận cái vọng thân tứ đại giả hợp này, cho là thật “thân” của mình; cái vọng tưởng sanh diệt này, cho là thật “tâm” của mình; cảnh vật giả tạm, cho là thật “cảnh” của mình, mà lại bỏ cái chơn tâm thường còn bất sanh bất diệt của mình sẵn có kia đi? Bởi thế nên các ông phải nhiều kiếp sanh tử luân hồi, thật là rất oan uổng! 

LƯỢC GIẢI 

Đoạn này Phật chỉ cái “thấy” không co mở, và không sanh, diêt, động, tịnh, đó là chơn tâm lưu lộ. 

VIII. A NAN CẦU PHẬT CHỈ DẠY Ở NƠI THÂN NÀY CÁI NÀO “CHƠN”, CÁI NÀO “VỌNG”.

Khi ấy A Nan và đại chúng được nghe Phật tạm chỉ “cái thấy không động tịnh co mở là Tâm”, nên tất cả đều hớn hở vui mừng, và nghĩ rằng: Từ vô thỉ đến nay, tự mình làm mất bản tâm, nhận cái vọng tưởng phân biệt theo bóng dáng của trần cảnh làm Tâm, ngày hôm nay mới ngộ được Tâm mình, nên hết sức vui mừng. Cũng như đứa con nhỏ khát sữa đã lâu, nay được gặp bà từ mẫu, nên ông và đại chúng cầu Phật chỉ rõ ở nơi thân tâm hiện tiền đây, cái nào chơn thật không sanh diệt và cái nào hư vọng có sanh diệt. 

IX. VUA BA TƯ NẶC ĐỨNG DẬY HỎI TIẾP

Khi ấy vua Ba Tư Nặc đứng dậy thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn, lúc trước chưa thọ giáo với Phật, con nghe phái ngoại đạo Ca Chiên Diên và Tỳ La Chi Tử đều nói: “Thân này sau khi chết rồi mất hẳn, gọi là Niết bàn”. 

Hôm nay con tuy được Phật chỉ dạy, nhưng vẫn còn hồ nghi: làm sao biết rõ và chứng chắc cái tâm này không sanh diệt. Xin Phật từ bi chỉ dạy cho chúng con. 

X. PHẬT CHỈ TÂM LẦN THỨ BA

Phật hỏi:

- Đại vương! Cái thân của ông hiện tại đây, nó bền chắc như ngọc kim cương, còn mãi không hư hoại, hay là phải hoại diệt? 

Vua đáp:

- Bạch Thế Tôn, thân con ngày nay đây, rốt cuộc rồi cũng bị hoại diệt. 

Phật hỏi:

- Ông chưa chết, làm sao biết nó sẽ bị hoại diệt? 

Vua đáp:

- Bạch Thế Tôn, cái thân vô thường của con đây, tuy chưa chết, nhưng hiện tiền nó đã tàn tạ dần! Ngày qua, rồi lại ngày qua! Mỗi niệm qua, qua từ sát na (tíc tắc) không dừng!... Cũng như củi đốt thành tro, cháy dần cho đến lúc tiêu tan! Vì thế nên con biết, thân này nhứt định sẽ tiêu diệt. 

Phật nói:

- Phải! 

Phật lại hỏi:

- Đại vương! Thân thể ông đâu phải tiêu diệt liền bây giờ? 

Vua đáp:

- Bạch Thế Tôn, ngày qua tháng lại, hết hạ đến đông, nó âm thầm già chết, cho đến ngày nay, đầu bạc răng rụng, chân lỏng gối dùn, mắt mờ tai lảng, già nua đến thế này, mà con thật không hay không biết! 

Bạch Thế Tôn, khi con hai mươi tuổi, tuy nói rằng tuổi trẻ, thật ra nhan sắc đã già hơn khi mười tuổi. Khi ba mươi tuổi lại già hơn khi hai mươi tuổi. Cho đến ngày nay, sáu mươi hai tuổi, lại già hơn khi năm mươi tuổi. 

Nó âm thầm già chết, lấy trong khoảng thời gian mười năm mà nói như vậy. Nếu chín chắn suy nghĩ, thì cái già, chết này, không phải hạn định trong khoảng mười năm hay hai mươi năm, mà thật ra, mà nó già từng năm, từng tháng, từng ngày, từng giờ. Nếu suy nghĩ kỹ hơn nữa, thì nó già, chết từng phút, từng giây và từng sát na (tíc tắc)! Năm nay già hơn năm rồi, tháng này già hơn tháng trước, ngày hôm nay già hơn ngày hôm qua, giờ này già hơn giờ trước, phút này già hơn phút trước, cho đến sát na này cũng già hơn sát na trước. Thế nên con biết, thân này rốt cuộc rồi cũng phải tiêu diệt. 

LƯỢC GIẢI 

Cũng như cái đồng hồ, vì có chạy từng giây, cho nên mới qua từng phút. Bởi có đi từng phút, nên mới chỉ đến từng giờ, và ngày, v.v... Thân này già chết cũng thế. 

*** 

Phật hỏi:

- Đại vương! Ông thấy cái thân thể của ông âm thầm già chết như thế, nên ông lo buồn; vậy ở nơi thân thể sanh diệt, già chết này, ông có biết được cái gì chẳng sanh diệt già chết không? 

Vua Ba Tư Nặc chắp tay cung kính thưa:

- Bạch Thế Tôn, con thật không biết!

XI. PHẬT CHỈ CÁI “THẤY” KHÔNG SANH DIỆT

Phật dạy rằng:

- Tôi nay chỉ cho ông thấy cái không sanh diệt. 

Này đại vương, khi ông mấy tuổi mới thấy được nước sông Hằng? 

Vua đáp:

- Khi lên ba tuổi, con được mẹ bồng đến yết kiến Thần Kỳ bà thiên (thần Trường thọ) đi ngang qua sông này, nên lúc bấy giờ, con đã thấy được sông Hằng. 

Phật hỏi:

- Hôm nay ông thấy sông Hằng, vậy cái “thấy” đó có khác không? 

Vua thưa:

- Khi con ba tuổi thấy sông Hằng, đến lúc mười ba tuổi và nay được sáu mươi hai tuổi, thấy sông Hằng cũng đều không khác. 

Phật dạy:

- Ngày nay ông lo buồn cho thân ông già yếu, đầu bạc mặt nhăn, không được như lúc còn trẻ. Vậy nay sáu mươi hai tuổi, ông xem thấy sông Hằng, cùng với khi còn trẻ thấy sông Hằng, cái “thấy” đó có già trẻ gì không? 

Vua Ba Tư Nặc thưa:

- Bạch Thế Tôn, cái “thấy” không có già và trẻ. 

Phật dạy:

- Này đại vương, thân thể mặt mày ông tuy già, mà cái “thấy” vẫn không già, vậy cái nào có già, thì cái ấy sẽ bị biến đổi, tiêu diệt; còn cái nào không già, thì cái đó không biến đổi sanh diệt. Nó đã không sanh diệt, thì đâu có bị ông làm cho nó sanh tử luân hồi được.

Rõ ràng như thế, ông không hiểu sao mà còn dẫn lời của ngoại đạo Mạt Già Lê nói: Thân này chết rồi hoàn toàn diệt mất? 

Vua cùng đại chúng nghe Phật dạy rồi, đều biết rằng: người chết rồi, là tâm bỏ thân này thọ thân khác, không phải mất hẳn. Ai nấy đều hớn hở vui mừng vì đặng lợi ích chưa từng có. 

LƯỢC GIẢI 

 Đoạn này Phật chỉ cái thấy không già trẻ, sanh diệt đó là Tâm .

(Xem tiếp Bài thứ 4: A NAN CẦU PHẬT CHỈ CÁI “ĐIÊN ĐẢO”)

 

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Những áng mây trắng - Thơ: Hoang Phong - Diễn ngâm: Hồng Vân
    • Mẹ ơi - Thơ: Thích Phước Hạnh - Nhạc: Hoàng Lan
    • Khúc ca Tịnh Độ - Lời: Thích Phước Hạnh - Nhạc: An Sơn
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 20
    • Số lượt truy cập : 6130348