Thông tin

BÀI KINH RATANA NHIỆM MẦU

NGĂN NGỪA DỊCH BỆNH

 

TUỆ ÂN tổng hợp

 


 

“Uggaṇhātha, bhikkhave, āṭānāṭiyaṃ rakkhaṃ. Pariyāpuṇātha, bhikkhave, āṭānāṭiyaṃ rakkhaṃ. Dhāretha, bhikkhave, āṭānāṭiyaṃ rakkhaṃ. Atthasaṃhitā, bhikkhave, āṭānāṭiyā rakkhā bhikkhūnaṃ bhikkhunīnaṃ upāsakānaṃ upāsikānaṃ guttiyā rakkhāya avihiṃsāya phāsuvihārāyā” ti. (Majjhimanikāya, Pāthikavaggapāḷi, bài kinh số 9, trang Myanmar 173).

“Này các Tỳ-khưu, hãy học Kinh hộ trì Āṭānāṭiya! Hãy học thuộc lòng Hộ Kinh Āṭānāṭiya! Hãy nắm giữ Hộ Kinh Āṭānāṭiya! Này các Tỳ-khưu, liên quan đến lợi ích là Hộ Kinh Āṭānāṭiya cho các vị Tỳ-khưu, các Tỳ-khưu ni, các cận sự nam và các cận sự nữ được bảo vệ, được hộ trì, không có bị xâm hại, được sống an vui”.

Những lời này được đức Phật sách tấn các hàng đệ tử hãy học Hộ Kinh Āṭānāṭiya để được bảo vệ. Do vậy, truyền thống tụng Kinh bắt đầu để được bảo vệ và mang lại kết quả tốt. Những bài kinh được tụng đọc gọi là Kinh Hộ Trì hay “Parittapāḷi”; có nghĩa là “Kinh Paritta sẽ hộ trì cho những ai tụng đọc và lắng nghe kinh này để tránh xa những sự nguy hiểm, nạn đói khát,... tất cả mọi điều rủi ro”.

Xuyên qua thời gian, những bài kinh Paritta được thêm vào thành “Kinh Tụng”. Do đó, chúng ta có thể tìm thấy trong Kinh Milindapañha và các bản chú giải (Aṭṭhakathā) của Ngài Buddhaghosa có đề cập về 9 bài Kinh như sau: Ratanasutta, Mettāsutta, Khandhasutta, Morasutta, Dhajaggasutta, Āṭānāṭiyasutta, Aṅgulimālasutta, Bojjhaṅgasutta và Isigilisutta.

Ratanasutta là một trong những bài Kinh có oai lực lớn; nếu được tụng đọc và lắng nghe một cách đúng đắn thì sẽ tránh khỏi tất cả mọi nguy hiểm và mang lại kết quả tốt.

Bài kinh Ratanasutta được tụng lên để cầu nguyện cho chúng sinh dứt khỏi các sự nguy hiểm do bệnh tật (roga), phi nhân (amanussa) và sự đói khát (dubbhikkha). Điều quan trọng là bài Kinh này được tụng đọc hay lắng nghe một cách đúng đắn. Có một vài điều kiện để thành tựu cả việc tụng đọc và lắng nghe nhằm mang lại những lợi ích của Kinh Ratanasutta. Thật vậy, về người tụng đọc cần phải đầy đủ ba điều kiện và về người lắng nghe cũng có ba điều kiện sau:

I. Ba điều kiện cho người tụng đọc là:

1. Họ phải được học và tụng đọc bài Kinh Hộ Trì Ratanasutta này một cách chính xác và đầy đủ mà không bỏ sót.

2. Họ phải hiểu được ý nghĩa của bài Kinh Hộ Trì Ratanasutta khi được tụng lên.

3. Họ phải tụng đọc với tất cả trái tim đầy hoan hỷ và với từ tâm.

II. Ba điều kiện cho người lắng nghe Kinh là:

1. Là người không phạm một trong năm trọng tội:

- Giết mẹ (Mātughātaka);

- Giết cha (Pitughātaka);

- Giết bậc A-la-hán (Arahantaghātaka),

- Làm chảy máu Phật (Lohituppādaka).

- Và chia rẽ Tăng chúng (Saṅghabhedaka).

2. Là người không có “Tà Kiến - Micchādiṭṭhi" như việc không tin Nghiệp (Kamma) và Nghiệp quả (Kammavipāka).

3. Là người lắng nghe những bài Kinh bằng sự tự tin ở kết quả từ việc nghe Kinh, thì sẽ tránh khỏi các sự nguy hiểm và mang lại kết quả tốt.

Chỉ khi những điều kiện này được đầy đủ, thì người này mới thành tựu những lợi ích của Kinh Hộ Trì Ratanasutta. Do vậy, điều quan trọng là khi Kinh Ratanasutta được tụng đọc và mọi người nên lắng nghe với niềm tin, sự kính trọng và bằng sự chú tâm. Hơn nữa, việc tụng Kinh Ratanasutta được phát sinh 2 lợi ích. Những ai tụng đọc như những người cho một cái gì đó; và những người lắng nghe giống như những người tiếp nhận một điều gì đó đã được cho. Nếu họ không nhận lĩnh những gì đã được cho thì họ không nhận được gì. Nói rõ hơn, nếu người nào không lắng nghe việc tụng đọc, mặc cho những người khác tụng lên và người này làm các việc khác; thì họ chắc chắn không nhận những gì đã được cho, do vậy họ sẽ không thành tựu được từ những lợi ích của việc nghe kinh.

Nguồn gốc của bài Kinh hộ trì Ratanasutta được kể lại như sau:

Thuở đức Phật còn tại thế, năm nọ, mạn phía Nam sông Gaṅgā trời đổ mưa liên tục từ ngày này sang ngày khác; nhưng suốt bốn năm tháng đó, mạn phía Bắc lại không có một giọt mưa. Một thảm họa từ đó đã phát sinh với các tiểu quốc ở vùng này, nhất là kinh thành Vesāli. Đất đai thì nứt nẻ, đồng ruộng, nương vườn khô cháy; mùa màng thất bát, lúa gạo dự trữ không đủ sức cầm hơi, rau cỏ không có mà ăn... Thế là đói khát trầm trọng (dubbhikkhantarakappa) đã xảy ra. Đó là nạn thứ nhất. Vì đói nên người chết rất nhiều, người sống không còn đủ sức mang xác ra nghĩa địa hoặc hỏa thiêu; họ chỉ việc quăng xác ra ngoại thành, mùi hôi thối tỏa khắp mọi nơi. Ác dạ-xoa lộng hành quậy phá làm khổ dân chúng. Đó là nạn thứ hai. Vì xác chết, vì hôi thối nên dịch bệnh lan tràn càng làm cho người chết nhiều thêm nữa. Đó là nạn thứ ba!

Các vua quan khẩn trương hội họp, đề cử một viên đại thần, tên là Mahāli – làm trưởng đoàn sứ giả, mang lễ phẩm trọng hậu đến Rājagaha, nhờ đức vua Bimbisāra giúp đỡ, trình lên đức Phật, mong ngài đến vùng Licchavī, kinh thành Vesāli để cứu khổ cho đại chúng. Đức vua không dám nhận hậu tình, bảo rằng đoàn sứ giả nên đến đảnh lễ đức Phật, dâng lễ phẩm và tường trình mọi sự lên Ngài, hiện Ngài đang an cư ở Veḷuvana với đại chúng tỳ-khưu!

Tôn giả Moggallāna đứng một bên, sau khi nghe viên đại thần Mahāli trình bày ba thảm nạn tại Vesāli, rồi khẩn cầu đức Phật giải họa, tự nghĩ: “Trong con mắt của thế gian, đức Thế Tôn không những thuyết giáo con đường giác ngộ, giải thoát – mà bây giờ ngài còn là một bậc Đại Siêu Nhân (Mahāpurisa), có thể có khả năng điều động thiên nhiên, kêu gió gọi mưa như các bà-la-môn phù thủy! Tuy nhiên, không những đức Tôn Sư làm được, mà các vị thượng thủ A-ra-hán cũng làm được. Đấy chỉ là sự vận hành tâm-sinh-vật lý tương quan, tương tác lẫn nhau! Trong trường hợp này, năng lực của tâm là tăng thượng - có thể dẫn dắt, điều động các năng lực khác!”.

Lúc phái đoàn sứ giả ra về rồi, Đức Phật nói với vị đại đệ tử:

– Này Moggallāna! Con nghĩ đúng đấy! Tuy nhiên, ba thảm nạn của Vesāli xảy ra là do ba nguyên nhân tương tác lẫn nhau mà không phải ai cũng thấy rõ, biết rõ: Thứ nhất là do nắng nóng khô hạn, thứ hai là do ác pháp phát sinh từ các vua chúa, thứ ba là do chư thiên, thiện thần, thiện dạ-xoa bỏ đi. Bây giờ, con hãy gọi Ānanda đến đây!

Sau đó, đức Phật dạy cho ngài Ānanda bài kinh hộ trì an lành có tên Ratanasutta; rồi ngài Ānanda lựa chọn thêm năm trăm vị tỳ-khưu trẻ có trí nhớ tốt cùng học thuộc…

Đúng ngày, khi đức Phật vừa đặt chân lên bờ Đông của tiểu quốc Licchavī thì một trận mưa rất lớn, tối trời tối đất như tự cổng trời mở ra, xối xả đổ xuống vùng đất đại hạn như đã chờ đợi đâu từ lâu lắm! (Tại nhân gian không biết, chứ lúc ấy, thiên chủ Sakka đã huy động Tứ đại thiên vương, thiên binh, thiên tướng, hội chúng rồng, hội chúng dạ-xoa cùng theo hầu đức Phật. Ác thần, ác dạ-xoa sợ hãi trốn đi nơi khác; các thiện thần, thiện dạ-xoa đồng loạt tìm về!) Trận mưa lớn kéo dài nửa ngày, bao nhiêu xú uế tan mất. Nhân dân khắp nơi tràn ra đường, vui mừng hò reo, hát ca, nhảy múa… Các vua quan, hội đồng tướng lĩnh, quý tộc đến sụp lạy bên chân đức Phật, nghẹn ngào tri ân, chảy nước mắt, không nói được nên lời!

Đêm ấy, bài kinh Paritta được đọc lên…

Ôi! Bài kinh với âm giọng của năm trăm vị tỳ-khưu đồng cất lên suốt đêm trường, thật là trầm hùng khôn tả. Cả không gian rung rinh, chao đảo. Cả đất trời Vesāli như chìm ngập giữa biển âm thanh thẳm sâu, cao diệu… Chư thiên vân tập đầy đặc cả không gian, thành kính lắng nghe kinh rồi cất lên lời đại nguyện hộ trì Tam Bảo và hộ trì quốc độ - nếu các đức vua và hội đồng quan cận thần bỏ ác pháp mà sống theo chánh pháp.

Ngày hôm sau, rất nhiều người không hiểu chư Tăng đọc mật chú gì mà có uy lực kinh khiếp như vậy? Nó làm cho toàn bộ dân chúng kinh thành Vesāli phải kính cẩn lắng nghe, tất thảy lo âu, sợ hãi đều tiêu tan. Không những trong lòng người mà cả không gian xung quanh cũng cảm giác cả một bầu khí thanh bình và an lạc!

Các vị trưởng lão và các vị A-ra-hán với trí tuệ thâm sâu phải giải thích:

Chẳng phải là huyền chú, mật chú gì đâu. Đấy là bài kinh nói lên uy lực của Tam Bảo, ân đức của Phật, của Pháp, của Tăng làm cho chư thiên hoan hỷ, lòng người hoan hỷ. Uy lực ấy lại còn được hội tụ bởi uy lực của năm trăm vị tỳ-khưu đọc tụng, tạo thành năng lực của Tăng thượng tâm, có thể tác động toàn bộ nội tâm và ngoại giới đem đến sự bình yên và mát mẻ cho quốc độ này…

Ba thảm nạn tại kinh thành Vesāli được chấm dứt cũng do như vậy đó. Chính là do năng lực Tăng thượng tâm.

Virút Corona với rất nhiều biến chủng mới đang thực sự đe dọa sự bình yên của thế giới này, trong đó có cả gia đình mỗi chúng ta. Với niềm tin vững chắc nơi Tam Bảo, tin vào sự nhiệm màu của Phật Pháp, Tuệ Ân xin chia sẻ bài Kinh này với ước mong sẽ có thật nhiều người học hiểu và tụng bài Kinh Hộ Trì này để trợ duyên cho đại chúng trong cơn nguy khốn. XIN HÃY HỌC TỤNG, HÃY BẬT YOUTUBE BÀI KINH NÀY, HÃY ĐỌC ĐỂ HIỂU NỘI DUNG BÀI KINH NÀY, HÃY CHIA SẺ BÀI KINH NÀY CHO THẬT NHIỀU NGƯỜI BIẾT VÀ TỤNG HÀNG NGÀY! Với năng lực không thể nghĩ bàn của Kinh Hộ Trì Paritta, chắc chắn những điều hung hiểm sẽ được tiêu tan và phúc lành sẽ phát sinh tràn ngập trên cõi Jampudipa này.

RATANA SUTTA

1 - Paṇidhānato paṭṭhäya Tathāgatassa;

Dasa pāramiyo/ dasa upapāramiyo/

Dasa paramatthapāramiyoti/

Samattiṃsa pāramiyo/ pañca mahāpariccāge/

Lokatthacariyaṃ/ ñātatthacariyaṃ/ buddhatthacariyanti/

Tisso cariyāyo/ pacchimabhave/ gabbhavokkantiṃ/

Jātiṃ abhinikkhamanaṃ/ padhānacariyaṃ/ bodhipallaṅke māravijayaṃ/

Sabbaññutaññāṇappaṭivedhaṃ/

Dhammacakkapavattanaṃ/ nava lokuttaradhammeti/

Sabbepime Buddhaguṇe āvajjetvā/

Vesāliyā tīsu pākarantaresu/ tiyāmarattiṃ;

Parittaṃ karonto/ āyasmā Ānandatthero viya/

Kāruññacittaṃ upaṭṭhapetvā/

Tôn giả Ānanda

Với tâm từ vô lượng,

Trì tụng Kinh châu báu

Suốt trọn cả đêm dài,

Ba vòng thành Vesāli.

Niệm tất cả ân đức

Của Như-Lai Đại Lực

Là 10 Ba-La-Mật,

10 thượng Ba-La-Mật,

10 thắng Ba-La-Mật.

5 pháp Đại thí xả.

3 Đại hạnh độ sinh.

Trong kiếp chót giáng trần.

Xuất gia tầm giải thoát.

Khổ hạnh đạo nhiệm màu.

Chiến thắng đạo ma quân.

Đại nhất thiết chủng trí.

Chứng 9 pháp siêu phàm.

Chuyển vận bánh xe Pháp

2 - Koṭīsatasahassesu, cakkavāḷesu devatā/

Yassāṇaṃ patiggaṇhanti, yañca Vesāliyā pure.

3 - Rogāmanussa-dubbhikkha/ sambhūtaṃ tividhaṃ bhayaṃ/

Khippamantaradhāpesi/ parittaṃ taṃ bhaṇāma he.

Chư Thiên khắp các cõi

Mười muôn triệu thế giới,

Đều vui mừng lĩnh hội

Kinh Châu Báu uy lực.

Tiêu trừ mọi tai ương,

Đói khát và bệnh tật,

Cùng phi nhân quấy nhiễu

Trong thành Vesāli

Thảy đều được tan biến.

Chúng con nay hết lòng

Trì tụng Kinh hộ niệm

4 - Yānīdha bhūtāni samāgatāni/bhummāni vā yāni va antalikkhe/ Sabbeva bhūtā sumanā bhavantu/ athopi sakkacca suṇantu bhāsitaṃ.

Chúng thiên nhân các cõi,

Dù thiên tiên, địa tiên.

Đã vân tập nơi này,

Mong khởi lòng hoan hỉ,

Thành kính nghe lời này

5 - Tasmā hi bhūtā nisāmetha sabbe/ mettaṃ karotha mānusiyā pajāya/ Divā ca ratto ca haranti ye baliṃ/ tasmā hi ne rakkhatha appamattā.

Rồi với lòng bi mẫn,

Năng hộ trì nhân loại,

Vốn đêm ngày hồi hướng

Phước lành đến chư Thiên

6 - Yaṃ kiñci vittaṃ idha vā huraṃ vā/

saggesu vā yaṃ ratanaṃ paṇītaṃ/

Na no samaṃ atthi tathāgatena/

Idampi Buddhe ratanaṃ paṇītaṃ/

Etena saccena suvatthi hotu.

Những tài sản trên đời

Chốn này hay nơi khác,

Cả châu báu cõi trời

Không gì sánh bằng được

Với Như-Lai Thiện Thệ.

Do vậy chính Phật Bảo

Là châu báu thù diệu.

Mong với chân ngôn này,

Tựu thành muôn hạnh phúc

7 - Khayaṃ virāgaṃ amataṃ paṇītaṃ/

yadajjhagā Sakyamunī samāhito/

Na tena dhammena samatthi kiñci/

Idampi dhamme ratanaṃ paṇītaṃ;

Etena saccena suvatthi hotu.

Pháp bất tử tối thượng

Ly dục diệt phiền não

Phật chủng dòng Thích-Ca

Chứng pháp ấy trong thiền.

Không gì sánh bằng được

Pháp thiền vi diệu ấy.

Do vậy chính Pháp Bảo

Là châu báu thù diệu.

Mong với chân ngôn này,

Tựu thành muôn hạnh phúc

8 - Yaṃ Buddhaseṭṭho parivaṇṇayī suciṃ/ samādhimānantarikaññamāhu/

Samādhinā tena samo na vijjati/

Idampi dhamme ratanaṃ paṇītaṃ/

etena saccena suvatthi hotu.

Đức Phật hằng ngợi khen,

Con đường thanh lọc tâm,

Là tu tập thiền định,

Chứng hiện các lạc trú.

Do vậy chính Pháp Bảo

Là châu báu thù diệu.

Mong với chân ngôn này,

Tựu thành muôn hạnh phúc

9 - Ye puggalā aṭṭha sataṃ pasatthā/

cattāri etāni yugāni honti/

Te dakkhiṇeyyā sugatassa sāvakā/

etesu dinnāni mahapphalāni/

Idampi saṃghe ratanaṃ paṇītaṃ/

etena saccena suvatthi hotu.

Thánh tám vị - bốn đôi,

Là những bậc Ứng cúng.

Đệ tử Đấng Thiện-Thệ

Được trí giả tán thán,

Cúng dường đến các ngài,

Hưởng vô lượng công đức.

Do vậy chính Tăng Bảo

Là châu báu thù diệu.

Mong với chân ngôn này,

Tựu thành muôn hạnh phúc

10 - Ye suppayuttā manasā daḷhena/ nikkāmino gotamasāsanamhi/

Te pattipattā amataṃ vigayha/ laddhā mudhā nibbutiṃ bhuñjamānā/

Idampi saṃghe ratanaṃ paṇītaṃ/ etena saccena suvatthi hotu.

Bậc tu hành thiểu dục,

Với ý chí kiên trì.

Khéo chân chánh phụng hành

Lời đấng Điều Ngự dạy,

Chứng đạt quả giải thoát,

Thể nhập đạo bất tử

Lạc trú quả tịch tịnh.

Do vậy chính Tăng Bảo

Là châu báu thù diệu.

Mong với chân ngôn này, tựu thành muôn hạnh phúc

11 - Yathindakhīlo pathavissito siyā/ catubbhi vātehi asampakampiyo/

Tathūpamaṃ sappurisaṃ vadāmi/ yo ariyasaccāni avecca passati/

Idampi saṃghe ratanaṃ paṇītaṃ/ etena saccena suvatthi hotu.

Ví như cột trụ đá,

Khéo chôn chặt xuống đất.

Dầu bốn hướng cuồng phong

Cũng không thể lay chuyển.

Ta nói bậc chân nhân.

Liễu ngộ Tứ Thánh-Đế

Cũng tự tại bất động

Trước tám pháp thế gian.

Do vậy chính Tăng Bảo

Là châu báu thù diệu.

Mong với chân ngôn này,

Tựu thành muôn hạnh phúc

12 - Ye ariyasaccāni vibhāvayanti/ gambhīrapaññena sudesitāni/

Kiñcāpi te honti bhusaṃ pamattā/ na te bhavaṃ aṭṭhamamādiyanti/

Idampi saṃghe ratanaṃ paṇītaṃ/ etena saccena suvatthi hotu.

Bậc thấu triệt Thánh Đế

Đã được khéo thuyết giảng

Bởi trí tuệ uyên thâm

Của đức Phật Chánh Giác.

Các ngài dù phóng dật

Thì cũng không bao giờ

Tái sinh hơn bảy kiếp.

Do vậy chính Tăng Bảo

Là châu báu thù diệu.

Mong với chân ngôn này,

Tựu thành muôn hạnh phúc.

13 - Sahāvassa dassanasampadāya/ tayassu dhammā jahitā bhavanti/

Sakkāyadiṭṭhī vicikicchitañca/ sīlabbataṃ vāpi yadatthi kiñci.

14 - Catūhapāyehi ca vippamutto/ chaccābhiṭhānāni abhabba kātuṃ/

Idampi saṃghe ratanaṃ paṇītaṃ/ etena saccena suvatthi hotu.

Nhờ chứng đạt chánh trí,

Đoạn trừ ba kiết sử

Thân kiến và hoài nghi

Luôn cả giới cấm thủ.

Thoát khỏi bốn đọa xứ. Bậc Nhập-Lưu không tạo

Sáu bất thiện trọng nghiệp.

Do vậy chính Tăng Bảo

Là châu báu thù diệu.

Mong với chân ngôn này,

Tựu thành muôn hạnh phúc

15 - Kiñcāpi so kamma karoti pāpakaṃ/ kāyena vācā uda cetasā vā/

Abhabba so tassa paṭicchadāya/ abhabbatā diṭṭhapadassa vuttā/

Idampi saṃghe ratanaṃ paṇītaṃ/ etena saccena suvatthi hotu.

Các bậc thánh Nhập-lưu

Dù vô tâm phạm lỗi

Bằng thân lời hay ý

Cũng không hề che giấu,

Được xứng danh hiền thánh.

Do vậy chính Tăng Bảo

Là châu báu thù diệu.

Mong với chân ngôn này,

Tựu thành muôn hạnh phúc

16 - Vanappagumbe yatha phussitagge/ gimhānamāse paṭhamasmiṃ gimhe/

Tathūpamaṃ dhammavaraṃ adesayi/ Nibbānagāmiṃ paramaṃ hitāya/

Idampi Buddhe ratanaṃ paṇītaṃ/ etena saccena suvatthi hotu.

Ví như mưa đầu hạ

Khiến ngàn cây đâm chồi.

Đức Thế Tôn thuyết giảng

Pháp đưa đến Niết-Bàn

Tịnh lạc và thù thắng,

Lợi ích chúng hữu tình.

Do vậy chính Đức Phật

Là châu báu thù diệu.

Mong với chân ngôn này,

Tựu thành muôn hạnh phúc

17 - Varo varaññū varado varāharo/ anuttaro dhammavaraṃ adesayi/

Idampi Buddhe ratanaṃ paṇītaṃ/ etena saccena suvatthi hotu.

Đức Phật bậc vô thượng

Liễu thông pháp vô thượng

Ban bố pháp cao thượng

Chuyển đạt pháp vô thượng.

Như vậy chính Đức Phật

Là châu báu thù diệu.

Mong với sự thật này,

Được sống chân hạnh phúc

18 - Khīṇaṃ purāṇaṃ nava natthi sambhavaṃ/ virattacittāyatike bhavasmiṃ/

Te khīṇabījā avirūḷhichandā/ Nibbanti dhīrā yathāyaṃ padīpo/

Idampi saṃghe ratanaṃ paṇītaṃ/ etena saccena suvatthi hotu.

Nhân quá khứ đã đoạn

Mầm tương lai không gieo,

Với tâm không ái chấp

Trong sinh hữu đời sau.

Bởi tham muốn đã đoạn,

Các chủng tử không còn.

Ví như ngọn đèn tắt.

Bậc trí chứng Niết-Bàn.

Do vậy chính Tăng Bảo

Là châu báu thù diệu.

Mong với chân ngôn này,

Tựu thành muôn hạnh phúc

19 - Yānīdha bhūtāni samāgatāni/ bhummāni vā yāni va antalikkhe/

Tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ/ Buddhaṃ namassāma suvatthi hotu.

Chúng thiên nhân các cõi,

Dù thiên tiên, địa tiên.

Đã vân tập nơi đây

Hãy chí thành đảnh lễ

Đức Phật - bậc Như-Lai

Được chư Thiên nhân loại

Đảnh lễ và cúng dường.

Mong với chân ngôn này,

Tựu thành muôn hạnh phúc

20 - Yānīdha bhūtāni samāgatāni/ bhummāni vā yāni va antalikkhe/

Tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ,

Dhammaṃ namassāma suvatthi hotu.

Chúng thiên nhân các cõi,

Dù thiên tiên, địa tiên.

Đã vân tập nơi đây

Hãy chí thành đảnh lễ

Chánh Pháp - đạo như chân

Được chư Thiên, nhân loại

Đảnh lễ và cúng dường.

Mong với chân ngôn này, tựu thành muôn hạnh phúc

21 - Yānīdha bhūtāni samāgatāni/ bhummāni vā yāni va antalikkhe/

Tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ/ Saṃghaṃ namassāma suvatthi hotu.

Chúng thiên nhân các cõi,

Dù thiên tiên, địa tiên.

Đã vân tập nơi đây

Hãy chí thành đảnh lễ

Tăng Bảo - bậc như đức

Được chư Thiên, nhân loại

Đảnh lễ và cúng dường.

Mong với chân ngôn này,

Tựu thành muôn hạnh phúc

Ratanasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Những áng mây trắng - Thơ: Hoang Phong - Diễn ngâm: Hồng Vân
    • Mẹ ơi - Thơ: Thích Phước Hạnh - Nhạc: Hoàng Lan
    • Khúc ca Tịnh Độ - Lời: Thích Phước Hạnh - Nhạc: An Sơn
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 16
    • Số lượt truy cập : 6130342