BẢN SẮC KHOA HỌC TRONG ĐẠO PHẬT
LIÊN QUAN ĐẾN “TRUNG ĐẠO”
(Majjhimapaṭipadà)
TUỆ LẠC
Sau khi đắc quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (Sammā Sambuddha) dưới tàn cây Bồ-Đề (Gaya, cổ ẤnĐộ). Và trong phần mở đầu “TUYỆT VỜI” của bài Pháp thứ nhất (Buddhassa pathama desanā), còn gọi là KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN (Dhammacakkappavattana sutta), thuyết tại vườn “Lộc-giả” (Isipatanamigadàya), cho nhóm 5 vị Kiều-trần-như (Pañcavaggiya Kondañña) nghe, đức Phật đã “vào đề”, nói thẳng vô TRUNG ĐẠO, trước khi giới thiệu nền tảng con đường giải thoát, TỨ DIỆU ĐẾ (Catu Ariya Saccāni), bao gồm “chu trình thực hành” có 8 PHẨM TÍNH (Atthaṅgika magga), một cách long trọng… rằng:
* Chu trình thực hành với 8 PHẨM TÍNH ấy còn gọi là bát chánh đạo, về sau cũng được xem như “một quy nạp thực nghiệm” cho đức hạnh toàn cầu, tương đương với phép “định hướng giải quyết” (hay thông số) trong khoa học.
- Đây là điều mà các “giáo chủ” khác đã không làm, khi khai mở “tôn giáo” của họ!
* Tất nhiên, khoa học mà không có THÔNG SỐ (hay toán học giải quyết), thì không còn là khoa học nữa. Nghĩa là THÔNG SỐ (xuyên qua toán học) luôn luôn được xem như dụng cụ then chốt, để những bộ óc xuất chúng có thể tìm ra, và thực hiện thành công, nhiều phát minh tuyệt vời… từ trước đến nay.
* Và “tiêu chuẩn hành động” của đạo Phật, (bát chánh = trung đạo), khi so sánh với khoa học thì… cũng thế! Nhưng đáng tiếc là hai chữ “TRUNG ĐẠO” (Majjhima magga) trong nhà Phật xưa nay, vẫn chưa được người đời hiểu biết một cách “Phật học”, mà không khéo nhiều người còn có thể hiểu khác đi nữa.
Vậy ở đây chúng tôi xin minh bạch rằng:
Trung đạo trong Phật giáo KHÔNG PHẢI là “học thuyết trung dung” của Khổng Tử, để nhân danh xã hội, đối xử một cách “quy ước” giữa người với người, giữa cộng đồng với cộng đồng, vốn có hai hay nhiều phía (ta với người, lẫn chúng ta với các người, trước đối tượng thứ ba). Tất cả “hành động trung dung” của Khổng Tử, luôn luôn trong tư thế mặc định… ngấm ngầm sắp đặt bổn phận và quyền lợi để duy trì “cạnh tranh ôn hòa” khó tránh được.
Trung đạo trong Phật giáo CŨNG KHÔNG PHẢI là “thế đứng trung lập” của các xu hướng (hay chủ nghĩa) chính trị, trước những xung đột bành trướng, xâm lăng (phá hoại nhất là dùng quân đội), để “tạm thời hoãn binh, đứng cửa giữa quan sát” chờ thời cơ thuận tiện, để hành động theo chiến lược ngấm ngầm của mình, gọi là “khôn ngoan”...! (?)
* Chưa kể trên thực tế, một thế lực quản trị hay một quốc gia yếu kém, thì không thể nào đóng vai “trung lập thực sự” được. - Chỉ có các chế độ hùng mạnh, mới có thể “tuyên bố trung lập” một cách công khai, rằng “chúng tôi không cần theo ai cả, vì chúng tôi thừa khả năng tự vệ, khi bị kẻ khác tấn công”.
- Tỷ như trong các cơn bão, không có cây nhỏ nào có thể đứng thẳng, mà tất cả phải ngã về một phía, là một “quy luật tự nhiên”, - ngoại trừ những đại thọ đã sống lâu năm, rắn chắc, hùng vĩ… - Trường hợp một số quốc gia nhỏ, mà được “trung lập”, thì đó vốn là may mắn, chứ không phải bởi “đủ sức tự quyết”, và chỉ khi nào họ được các cường quốc trong cuộc cạnh tranh chấp thuận, vì lý do “địa lý chính trị” (géopolitque)!
Nhưng KHÁC HẲN với những gì vừa nêu trên, TRUNG ĐẠO (Mạjjhima paṭipadā magga) trong Phật giáo, là “pháp hành trung trực”, áp dụng trong mỗi cá nhân, để tự tạo sự thăng bằng, cho MỘT thực tại thân tâm, trước các chướng ngại bên trong lẫn bên ngoài… gây ấn tượng xung đột, và ngăn cản sự tiến hóa. Đó là thực trạng bất ổn, đầy mâu thuẫn, giằng co giữa hai thế lực THUẬN và NGHỊCH trong tư tưởng vô minh của con người!
* Theo VI DIỆU PHÁP (Abhidhamma) trong Phật giáo, TRUNG ĐẠO là “duyên khởi” đưa đến quân bình năng lượng (hội tụ thần lực, hay nhân điện), để giúp tâm tư trở thành an tịnh, “phát quang”, tạo ra hành động chính trực, lành mạnh, vô hại, có hiệu lực giải trừ xung độ nội tại cá nhân. Từ đó, bộc lộ gương sáng tiến hóa ra xã hội về sau, GIÁC THA.
* Nghĩa là TRUNG ĐẠO trong nhà Phật không phải là “nghệ thuật làm đẹp sách lược”, phải được một số người “nhìn nhận”, cần tuyên truyền và áp đặt lên cộng đồng, một cách vụ lợi. – Vì trong TRUNG ĐẠO không có dụng ý đầy CỐ CHẤP. - Dù cho ấy là “cố chấp vào trung đạo”. Ai sống và hành động trong gò bó với CÁI gọi là “mẫu mực trung đạo”, thì người ấy không còn là “trung đạo tử” nữa!
- Tuy nhiên, dẫu biết rằng TRUNG ĐẠO triệt tiêu BẢO THỦ (= ù lì, lạc hậu), nhưng chúng ta cũng cần cẩn thận, không nên “si mê” trước các “ưu điểm” của “phá chấp”. Vì không khéo “phá chấp” một cách vô điều kiện, cũng có thể đưa đến tình trạng coi thường kỷ luật, dẹp bỏ đạo đức, canh cãi Phật pháp. Và những kẻ buông lung, giẫm lên đạo đức thường lạm dụng 2 chữ “phá chấp”, để ngụy biện, cổ võ làm bậy.
- Ở đây, thay vì gọi là “phá chấp” (upādānassa nāsa), có vẻ “bạo động” với chữ “phá”, chúng ta tuy không vướng mắc vào chữ nghĩa, cũng nên hài hòa, và dùng từ ngữ nhẹ nhàng hơn là VÔ CHẤP (nissaṅga).
Vậy NỘI DUNG của VÔ CHẤP là gì?
Vô chấp theo trung đạo là toàn xả, thanh tịnh, hướng thượng, và bình đẳng. VÔ CHẤP trong TRUNG ĐẠO không bao giờ là nhân duyên… để phát khởi buông lung. Vô chấp trong trung đạo chính là động cơ của tất cả hành vi hài hòa, hướng nội, tự lực, thanh tịnh, tiến hóa và từ bi. Một tinh thần vô chấp là một tinh thần vui tươi, vô hại, hùng tráng và bình đẳng… đối với bất kỳ đối tượng nào.
- Hiệu lực quý báu của TRUNG ĐẠO xuyên qua trải nghiệm, phải luôn luôn có 4 ưu điểm, là khai thông (uggāṭeti), hóa giải (niccheti), tiến bộ (abhivaḍḍhati), và khả thi (bhāveti). Ngày xưa, chính ngài Tất-đạt-đa đã nhờ TRUNG ĐẠO mà thành bậc TOÀN GIÁC (Sammā Sambuddha), sau khi đã cực đoan tu khổ hạnh đến 6 năm trường!
* Như vậy, TRUNG ĐẠO trong đạo Phật, chính là giáo pháp căn bản của SỰ SỐNG. Nó chứa đầy năng lực hướng thiện cho mỗi cá nhân, và rất thực tiễn trong sự ổn định đời sống thực tại.
- Nói cách khác, tất cả những gì lập thành “bình an thân tâm”, đều là “đóng góp” của trung đạo. Mọi sinh hoạt mà không nằm trong TRUNG ĐẠO, thì bế tắc (= khổ), hay sẽ trở thành thái quá, để tinh thần của mỗi cá nhân chắc chắn sẽ rơi vào một trong hai “khuynh hướng lẩn quẩn”, là “trung dung” hay “trung lập”, như đã nói trên đây.
Theo Phật học, “TRUNG ĐẠO là con đường duy nhất (ekayana magga) để tiến hóa” mà mỗi cá nhân cần phải có. Và Phật học cũng khẳng định rằng, “muốn cải thiện xã hội, trước tiên phải cải thiện từng cá nhân mỗi con người”. - Câu nầy ám chỉ trung đạo phải bắt đầu từ những đơn vị tình nguyện hướng thiện… họp thành xã hội, chứ không thể áp đặt lên số đông.
* Đức Phật gọi tất cả hỗn hợp tâm vật trong vũ trụ nói chung, và trên địa cầu (loka) nói riêng, là UẨN (Kandha) hay chúng sanh (sattā), nên sau khi giới thiệu qua TRUNG ĐẠO, Ngài đã thuyết minh các SỰ THẬT siêu việt (Ariya Saccāni), giúp cho mỗi thính giả (năm vị Kiều-trần-như = Pañcavaggiya Kondañña), cải thiện sự hiện hữu. Đồng thời Ngài cũng nêu ra những chướng ngại (nhân duyên thoái hóa), có thể làm cho chúng sanh tối tăm, vướng mắc, bế tắc, sa đọa, và tiếp tục lẩn quẩn luân hồi.
Nếu trong học thuật KIẾN TRÚC, có sự “ấn định giác đế, để bao gồm sự nâng đỡ toàn thể trọng lượng công trình” thì trong ĐẠO PHẬT, đức Phật cũng nêu ra TRUNG ĐẠO để “bảo đảm” và ổn định căn bản GIÁC NGỘ. Căn bản giác ngộ ấy gọi là bốn nền tảng của sự thật (sacca), hay TỨ DIỆU ĐẾ (Catu Ariyasaccàni). - Đó là BỐN CHÂN LÝ, hướng dẫn từ “thuyết minh” đến “thực hành”. Và chân lý thứ tư, còn mệnh danh là BÁT CHÁNH ĐẠO (Atthaṅgikamagga), hay con đường gồm 8 phẩm cách thăng hoa sự sống.
TRUNG ĐẠO trong Phật giáo tượng trưng cho “bản sắc khoa học”, không những làm TIỀN ĐỀ cho riêng bài kinh CHUYỂN PHÁP LUÂN (Dhammacakkappavattana-sutta), mà NÓ còn là “CHỈ NAM TẤT NHIÊN” của toàn bộ giáo lý giải thoát (gồm 84.000 pháp môn) của đức Phật. Từ đó, TRUNG ĐẠO cũng là DUYÊN KHỞI (Paṭicca samuppāda) của tâm thanh tịnh (Visuddhicitta), trong MỖI CHÚNG SANH hướng thiện, hay MỖI ĐỘNG TỬ hướng đến CHÂN THIỆN MỸ toàn cầu, vượt không gian và thời gian.
* Với hiệu lực xây dựng, TRUNG ĐẠO chính là “năng lượng quân bình” của tất cả các hành vi lành mạnh, trong đời sống cá nhân hằng ngày. Bốn oai nghi, như đi đứng nằm ngồi, và cách ăn nói cũng như suy nghĩ nếu đượcTRUNG ĐẠO làm cho QUÂN BÌNH, thì sẽ khiến cho kiếp sống an vui hơn. Một người theo đạo Phật, tình nguyện không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, và không dùng chất say, tất nhiên phải cần đến “năng lượng trung đạo”, để tránh trước các cực đoan bế tắc.
Và TRUNG ĐẠO ở đây cũng có thể xem là một tuyệt pháp, chế tạo ra “nội lực quyền biến”, gọi là siêu năng hay thần thông (Iddhibàla, Dibbiṅdriya). NỘI LỰC ấy chính là khả năng thích nghi với mọi hoàn cảnh, để có khi thì “ứng dụng nghiêm chỉnh, nhưng tương đối” hay “khế lý khế cơ”, đúng theo câu “tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên”, hầu duy trì tiến bộ… mà không lạc hướng. – Và có khi thì “áp dụng thiện pháp một cách đầy đủ, viên dung” (tương đương với “tuyệt đối”, mà không vướng vào cái khung cứng ngắc!
- Các bậc mô phạm trong đạo Phật, luôn luôn coi TRUNG ĐẠO như đặc tính khoa học, để không ngừng âm thầm cải thiện thực tại, thanh tịnh tinh tấn, đạt đến viên mãn ba-la-mật (paramattha pàramì = công phu tuyệt độ), - nghĩa là họ hùng tráng thực hiện đầy đủ nguyện vọng Bồ-tát (Bodhisatvà), TỰ GIÁC đủ phẩm cách trước, rồi dấn thân GIÁC THA sau.
Thử xét qua trường hợp sau đây:
- Những thanh niên theo đạo Phật, khi không may sống trên một quê hương bị ngoại bang xâm lấn. Giới lành thứ nhất của họ là không sát sinh. Nhưng nghĩa vụ công dân cũng không cho phép họ ngoảnh mặt làm ngơ, quay lưng… trước cảnh đời sống đồng bào bị ngoại nhân giày xéo. Họ làm sao từ chối, không cầm võ khí để bảo vệ đất nước? - Tín đồ đạo Phật khi đối diện với một “nghịch cảnh” chẳng có chọn lựa, lòng tự trọng của những người noi gương Bậc Toàn Giác, không cho phép họ hành động như loài chim tuy có đôi cánh mà không biết bay, phải thọc đầu xuống hang đất, để tránh thấy sự bất hạnh!
TRUNG ĐẠO của đạo Phật trong trường hợp nầy, chính là “giải pháp”, giúp họ vừa làm tròn bổn phận công dân, vừa không bị giới sát sinh gây “xung đột nội tâm”, mỗi khi nhớ biết mình là tín đồ đạo Phật. Và điều cần nhấn mạnh ở đây, là họ CŨNG KHÔNG ngụy biện cho rằng, “giết giặc là không phạm sát giới”.
- Theo Phật giáo, “chấm dứt sinh mạng của một đối tượng nào với bất cứ lý do gì, cũng đều có tội”. Nhưng người thanh niên con nhà Phật, sẽ sẵn sàng nhận tội cho riêng mình, để tái lập hòa bình, độc lập dân tộc trên quê hương, - nhất là trong dân tộc ấy… có những thân nhân ruột thịt… đã trực tiếp hay gián tiếp sinh đẻ ra họ, và nuôi dưỡng, giáo dục họ nên người.
* Chưa kể TỨ ĐẠI ÂN hay “bốn ân lớn” trong đạo Phật là Ơn Tam bảo (Phật Pháp Tăng), Ơn phụ mẫu (cha mẹ), Ơn thầy tổ (truyền trao kiến thức), và Ơn chúng sanh (thân quyến từ vô số kiếp trước), mà một tín đồ noi gương Phật… phải làm tròn.
* Mặt khác, Phật học cũng nói rõ, cõi trần là cảnh giới đa sinh linh, tội phước đan xen lẫn lộn, trùng trùng duyên khởi, thiện ác giao thoa, biệt nghiệp nằm hẳn trong cộng nghiệp. - Đạo Phật chỉ cung cấp các pháp hành hữu hiệu để hóa giải khổ đau, đối với những ai tuyệt đối hay tương đối HỮU DUYÊN, chứ đạo Phật không thể “toàn thiện hóa” (một cách cực đoan) tất cả được. – Do căn cơ, nghiệp quả mỗi chúng sanh bất đồng!
- Vả lại, phẩm cách của CHÁNH KIẾN (Sammà diṭṭhi) cũng giúp cho người thanh niên theo đạo Phật (đã thấm nhuần TRUNG ĐẠO), không vì nghịch cảnh mà rơi vào TÀ KIẾN (Micchā diṭṭhi), biện luận xoay chiều, để xem “tham chiến ấy là việc thiện”. Và nhờ tinh thần MINH MẪN (dũng cảm), người lính con nhà đạo Phật, vẫn “tự tin” khi thi hành phận sự của mình. TỰ TIN vì “sát sinh cứu quốc” cũng là một cách “HY SINH CÁ NHÂN” (= quên mình) để tái lập bình an cho dân tộc, giống như nghĩa cử của các bậc anh hùng trong lịch sử nhân loại. “Cướp của từ những ác bá, để giúp đỡ dân nghèo. Phạm tội vì cứu độ chúng sanh, thì sau khi trả quả báo xong, sẽ thăng hoa”, - hay giống như TUYỆT HẠNH xả thân của chư ĐẠI BỒ-TÁT (Mahā Bodhisatvā)!
Hơn nữa, muốn tình nguyện SỐNG THIỆN giữa cõi đời tục lụy (chứ không phải làm “lành” vì áp lực, hay bắt chước “tu hành” để được khen ngợi), người noi gương Phật vẫn luôn luôn nhờ vào TRUNG ĐẠO, mới có thể “hóa giải” nổi những “bế tắc”, và những “mâu thuẫn” do VÔ MINH (Avijjā) gây ra, trước các “tâm quả xấu từ tiền kiếp” (akusalavipākacitta), như tham, sân, si, và “chấp ngã”, nói theo VI DIỆU PHÁP. - Nghĩa là trong suốt 3 tiến trình TU GIỚI (sīla bhāvanā), TU ĐỊNH (samādhi bhāvanā) và TU TUỆ (paññā bhāvanā), TRUNG ĐẠO phải được xem là phương pháp hữu hiệu, khắc phục mọi chướng ngại!
* Đối với các NHÂN BẤT THIỆN (akusala hetu) như THAM, SÂN, SI vừa nêu trên, trong chúng sanh còn mang thân động vật, thì một phàm nhân chưa thành Phật RẤT KHÓ thoát khỏi sự TRÀN NGẬP (ogha) của chúng. Vì trên thực tế, hai “ác tật” SÂN HẬN (dosa) và SI MÊ (moha), nếu “truy nguyên” thì chúng vốn vừa là “PHẢN ỨNG” (bên ngoài), vừa là “MẶT THẬT” (bên trong) của LÒNG THAM (lobha).
Chúng TRÀN NGẬP như thế nào?
- Khi phàm nhân tham muốn sáu trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp) mà đạt được, thì tâm tục lụy HÀI LÒNG (= chịu đựng cái VUI), rồi phát sinh thêm một lớp bụi SI MÊ, phủ lên tinh thần và kiếp sống. - Còn khi phàm nhân tham muốn sáu trần (là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp) mà không đạt được, thì tâm tục lụy BẤT MÃN (= chịu đựng GIẬN, BUỒN), cũng phát sinh thêm một lớp bụi SI MÊ, phủ lên tinh thần và kiếp sống.
Nhưng cái RẮC RỐI của “mê hồn trận” trong lục đạo luân hồi là như sau: - Tuy THAM có “mặt thật” là SI, nhưng NÓ lại là động cơ chính của tất cả sinh hoạt sống giữa biển luân hồi. Và THAM đồng thời cũng là nguồn gốc phát sinh BẢN NGÃ (attā = atmā).
* Nói theo “năng lực” của 3 pháp “NHÂN DUYÊN QUẢ” trong nhà Phật, thì xuyên qua sáu nẻo luân hồi (= lục đạo), nếu THAM có thể kéo sinh linh xuống THẤP, sa đọa (vì phạm tội), thì THAM cũng có thể đẩy sinh linh lên CAO, thiên giới (nhờ làm lành).
* Và hiển nhiên, kẻ phàm phu khởi đầu “hành động thiện” chỉ vì “tham phước”, là một điều không ai có thể chối cãi, hay biện bác vào đâu được.
* Trình bày Bản Sắc Khoa Học trong đạo Phật ở đây, là xin nói thẳng rằng, TRUNG ĐẠO mà Bậc Giác Ngộ (Buddha) “đã nêu ra” hằng giúp chúng ta nhận thức và hóa giải các RẮC RỐI trong “mê hồn trận luân hồi” như thế! -Nếu cố chấp vào 2 cụm từ có nội dung đề cao “diệt tham” và “diệt ngã”, thì người muốn sống thiện sẽ không tránh khỏi bị mâu thuẫn và bế tắc.
* Với tư tưởng quyết định “BỎ HẾT LÒNG THAM” và “TUYỆT ĐỐI VÔ NGÔ thì một người phàm có thể làm thiện được gì, để “thăng hoa”, hay chỉ là trở thành bất lực, buông xuôi, cố ý bi quan, vô trách nhiệm (tôi là “con số không” mà)?!
- Xem ra những người đang “giúp đời” vì tham danh trong hiện tại, trước khi hành động, dù họ đã không có “chánh kiến”, chẳng biết “vô thường (thịnh suy) đưa đến KHỔ” là gì...! Nhưng sự “đóng góp” của họ vẫn mang lại niềm vui cho một số người tiếp nhận sự giúp đỡ.
- Và theo TRUNG ĐẠO, đây chính là “duyên khởi lành” (kusala paccaya) trong cuộc sống cộng nghiệp phức tạp. Chúng tôi tự hỏi “chúng ta NÊN hay KHÔNG NÊN” gọi “ấy” là “điểm tích cực” của lòng tham và bản ngã, trong “mê hồn trận” luân hồi!? Nghĩa là “khoa học trung đạo” cần thiết trước mọi đối tượng, cho mọi căn cơ, vì nó có “khả năng” giúp chúng ta chấp nhận thực tại, rồi tạm thời “định hướng” cả lòng THAM lẫn BẢN NGÃ nghiêng về NẺO LÀNH (kusala magga)… hầu sau cùng chính mỗi cá nhân hành thiện sẽ khám phá ra, cái “hiệu quả kỳ diệu” của Pháp Phật.
- Riêng… những người thuở đầu làm lành vì tham danh, nếu được định hướng đúng, họ sẽ dần dần có chánh kiến và chánh tư duy, để tiếp tục “sống thiện”. Và HIỆU QUẢ KỲ DIỆU là tật tham và bản ngã của họ sẽ bị “giũa mòn”, duyên theo ngày tháng họ làm TỐT. Rồi trong phần tư cuối cùng của cuộc đời, họ sẽ nhận ra “nguồn gốc THỰC của bình an cho kiếp người là PHẢI SỐNG HỮU DỤNG (vì xã hội) như thế nào!”.
- Đây là một kết quả rất khoa học (nếu không muốn nói là “thần bí”), trong giáo lý NHÂN DUYÊN QUẢ của nhà Phật. Nếu muốn kiểm chứng, một cá nhân PHẢI thực hành, mới có thể trải nghiệm được. Còn khi chỉ “BIẾT LÝ THUYẾT” mà CHƯA TỰ THÂN THỰC HÀNH, thì đó vốn là một “mớ lời lẽ đạo đức”, chủ trương tuyên truyền thuyết phục cả mình lẫn đám đông, biến tất cả thành những kẻ “tự kỷ ám thị”, để dần dần “thuộc lòng kịch bản” (bị nhồi sọ), như một thứ “bệnh tinh thần”, biểu lộ bằng thái độ CỰC ĐOAN, không ngừng ca ngợi bằng miệng “tiêu diệt tham lam và bản ngã”. Nghĩa là nhờ TRUNG ĐẠO trong Phật giáo định hướng “lòng tham” và trách nhiệm hóa “bản ngã”, theo tiến trình nhân duyên quả, mà người con Phật LÀM NHIỀU HƠN NÓI, không cho phép tật cực đoan phát sinh. - Cách diệt tham và diệt ngã nầy (theo gương bậc Giác Ngộ) chính là mở đầu của sự giải thoát!
(Còn tiếp)
Pháp quốc, Paris 20/6/2021
(Ghi lại tri kiến… phát sinh nhờ CHỈ QUÁN trong mùa “tịnh thất”)
Bình luận bài viết