BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU VỀ BỐI CẢNH RA ĐỜI
VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG TIÊU BIỂU
CỦA HỘI PHẬT GIÁO THIỆN HỮU
DƯƠNG THANH MỪNG
Bối cảnh ra đời
Sau khi Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học được chính quyền thuộc địa cấp phép thành lập, rất nhiều tổ chức Phật giáo đã nối tiếp nhau ra đời. Theo thống kê của chúng tôi, riêng tại miền Nam, trong giai đoạn 1931-1954, có đến 17 tổ chức Phật giáo được hình thành. Ngoài Sài Gòn (có 7 tổ chức), các tỉnh Long Xuyên (3 tổ chức), Trà Vinh (2 tổ chức), Bà Rịa (1), Sóc Trăng (1), Rạch Giá (1),... đều có các tổ chức Phật giáo được thành lập. Chính sự phong phú và đa dạng như vậy nên không ít nhà nghiên cứu đã có sự nhầm lẫn khi nghiên cứu về các tổ chức này. Cũng cần phải nói thêm rằng, sở dĩ có sự nở rộ về mặt tổ chức như vậy chính là bởi vai trò tiên phong của Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học. Các thành viên sáng lập đã có một quá trình khá gian nan (gần 5 năm) để minh chứng cho chính quyền thuộc địa thấy được tính cấp thiết của việc xây dựng hệ thống tổ chức cũng như bảo tồn và phát huy các giá trị của đạo Phật. Tất nhiên, bản thân chính quyền thuộc địa sau khi xem xét và nhận thấy được các lợi ích thực sự của việc quản lí các tín đồ nhà Phật dựa theo các hội đoàn nên mới chấp nhận kí vào các văn bản xin phép thành lập Hội. Sau bước đà quan trọng này là đến những ảnh hưởng từ các phong trào đấu tranh dân sinh, dân chủ diễn ra ở Việt Nam trong giai đoạn 1936 - 1939. Chính sự nới lỏng các quyền tự do, dân chủ của Chính phủ Bình dân Pháp nên nhiều tổ chức đã được thành lập ở vào giai đoạn này, trong đó có cả Hội Phật giáo Thiện Hữu. Bản thân Phái đoàn Justin Godart lúc sang thị sát tình hình Đông Dương cũng đã ghé thăm các cơ sở Phật giáo ở Nam Kỳ và Trung Kỳ1. Ngoài việc đánh giá cao những nỗ lực chấn hưng của các tăng ni, Phật tử, Justin Godart cũng rất ái mộ chủ trương từ bi, cứu khổ của đức Phật. Trong bài phát biểu trước các tăng ni, Phật tử tại Huế, ông đã nhấn mạnh rằng: “Chính phủ Bình dân rất tán thành cái lòng từ thiện của đức Phật. Từ thiện không phải để ở trong lòng mà cần phải làm cho nó thực hiện ra bằng những hành động và cử chỉ, bằng những việc làm, bằng sự chân thành sửa đổi đối với quần chúng lao khổ hiện nay. Nguyện vọng của chúng tôi là yêu cầu Chính phủ Nam triều và các quan lại thuộc địa cần phải lấy lòng công bình, khoan hồng, rộng lượng hay nói rõ hơn là lòng đạo đức từ thiện trong công việc cai trị dân chúng ở xứ nghèo nàn, khốn khổ này”2.
Hiện nay, rất nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: “Năm 1931, Hòa thượng Huệ Đăng chùa Thiên Thai, thành lập Thiên Thai Thiền Giáo Tông, Thiện Hữu Hội và cho xuất bản Tạp chí Bác Nhã Âm”3. Tuy nhiên trên thực tế, tổ chức này được thành lập vào ngày 19/10/1934, theo Nghị định Số 2954 của Thống đốc Nam Kỳ và tên gọi chính xác phải là “Thiên Thai Thiền Giáo tông Liên Hữu hội”. Còn Hội Phật giáo Thiện Hữu được Thống đốc Nam Kỳ là Michel Pagès cho phép thành lập vào ngày 18/5/1936, theo Nghị định Số 1662. Hội quán đóng tại chùa Phước Long, làng Mỹ Luông, tổng Định Hòa, tỉnh Long Xuyên. Ban Trị sự lâm thời gồm có: Hội trưởng là Lê Văn Thoại (yết ma chùa Phước Long), phó nhất Hội trưởng là Nguyễn Văn Hết (hương chức làng Mỹ Luông), phó nhì Hội trưởng là Nguyễn Kim Đôi (hương thân làng Mỹ Luông), Thư ký là Nguyễn Văn Minh (chức việc làng Mĩ Luông), Thủ quỹ là Nguyễn Văn Huynh (điền chủ làng Mỹ Luông) cùng phó là Trương Văn Sáng (điền chủ làng Mỹ Luông), Cố vấn là Lý Thuận Hòa (Thư ký quan tuần thành Mỹ Luông), Lê Văn Huệ (điền chủ làng Mỹ Luông) và Huỳnh Văn Rớt (thương nhân làng Mỹ Luông).
Điều mà chúng tôi băn khoăn lớn nhất hiện nay là mối quan hệ giữa Hội Phật giáo Liên Hữu và Hội Phật giáo Thiện Hữu. Hai tổ chức này đều được thành lập ở Long Xuyên nhưng ở hai thời điểm khác nhau và trụ sở hoạt động cũng khác nhau. Rất nhiều nhà nghiên cứu đã cho là có sự ra đời của Hội Phật giáo Liên Hữu. Bản thân chúng tôi trong một vài bài viết trước đây cũng đã đề cập đến sự ra đời của tổ chức này tại chùa Bình An, Long Xuyên vào năm 1932. Tạp chí Duy Tâm của Hội Lưỡng Xuyên Phật học, số 29, tháng 3 - 4/1938 cũng có đăng tải thông tin về việc mời Hội trưởng của Hội Phật giáo Liên Hữu đến chùa Hội quán Long Phước để tham gia bàn luận việc thành lập Phật giáo Tổng hội4. Tuy nhiên, khi khảo sát kỹ các văn bản của chính quyền thuộc địa Pháp, chúng tôi không tìm thấy được các thông tin liên quan đến Hội Phật giáo Liên Hữu mà thay vào đó là các thông tin của Hội Phật giáo Thiện Hữu như đã nêu trên. Bên cạnh đó, các công trình do các môn đồ của chùa Bình An ấn hành trong giai đoạn này cũng không thấy đề cập đến các thông tin của Hội Phật giáo Liên Hữu mà thay vào đó là các phương pháp tu tập theo pháp môn Tịnh độ. Việc làm rõ mối quan hệ giữa hai tổ chức này chắc hẳn cần phải có thêm thời gian và tài liệu để minh chứng. Tuy nhiên, theo nhận định cảm quan bước đầu của chúng tôi thì không có sự ra đời của Hội Phật giáo Liên Hữu mà chỉ có Hội Phật giáo Thiện Hữu.
Cách thức tổ chức và hoạt động của Hội Phật giáo Thiện Hữu
Để có đủ cơ sở pháp lý cho quá trình hoạt động, các thành viên của Hội đã làm đơn gửi chính quyền thuộc địa xem xét. Ngày 18/5/1936, quyền Thống đốc Nam Kỳ đã có công văn gửi các thành viên ở chùa Phước Long về việc công nhận bản điều lệ, cũng như cho phép Hội chính thức đi vào hoạt động. Rất tiếc, hiện chúng tôi chưa thể tiếp cận được bản điều lệ này để làm rõ mục đích, tôn chỉ ra đời của Hội. Tuy nhiên, chúng ta có thể hiểu được phần nào về chức năng, cách thức hoạt động của Hội qua bản Quy điều Nội trị gồm 23 điều khoản được các thành viên khởi thảo và thông qua vào ngày 14/6/1935. Đến ngày 2/7/1936, chính quyền thuộc địa phê duyệt, cho phép Hội phát hành rộng rãi đến các thành viên. Nội dung cụ thể như sau:
Điều 1-3, những người muốn tham gia vào Hội thì phải làm đơn (theo đúng các yêu cầu tại khoản 5 của bản Điều lệ). Sau khi xem xét kỹ lí lịch, nếu không có những khuyết điểm lớn về mặt đức hạnh lẫn những vi phạm trong đời sống thế tục thì Ban Trị sự sẽ chấp thuận. Những người mới vào Hội sẽ phải đóng 5 cắc tiền nhập Hội và 1 cắc tiền hội phí. Ngoài ra, trong mỗi năm các hội viên còn phải đóng thêm 2 cắc để tổ chức ngày lễ vía đức Phật Thích Ca (8/4) và đức Phật A Di Đà (17/11). Tiền hội phí sẽ được đóng vào ngày 14 hàng tháng. Các khoản lệ phí nêu trên là bắt buộc. Các hội viên nếu có lòng thành tham gia làm công quả thì Hội sẽ ghi nhận chứ không được khấu trừ vào bất cứ khoản kinh phí nào.
Điều 4-5, vào những ngày rằm hay ngày lễ vía, các thành viên trong Ban Trị sự của Hội sẽ có mặt thường trực tại các chùa hội viên để ghi chép tiền hỉ cúng của chư tăng và thiện tín. Tên tuổi của các nhà hảo tâm, những người đóng góp trong các ngày lễ này sẽ được dán ở cổng chùa hoặc những nơi dễ quan sát. Các chùa hội viên chỉ được giữ lại cho mình không quá 5 đồng, số tiền còn lại sẽ đưa vào công quỹ chung của Hội. Để các ngày rằm, lễ vía đức Phật trở nên trang nghiêm, Ban Trị sự sẽ cử người đến trông coi và các hội viên phải cùng nhau góp công, góp sức để tổ chức.
Điều 6-7, Hội sẽ thành lập Ban Trị sự cho cả nam và nữ để cùng nhau điều phối công việc. Ban Trị sự nam phụ trách các công việc liên quan đến nam giới còn Ban Trị sự nữ phụ trách các công việc liên quan đến nữ giới. Ban Trị sự nữ không có chức vụ Thủ quỹ. Các công việc quan trọng của Hội đều phải thông qua sự biểu quyết của hai Ban Trị sự này. Hai Ban phải thống nhất mục tiêu, chương trình hành động để các hội viên cùng thực hiện cũng như phải đề đạt được các phương pháp nhằm giúp cho Hội mở rộng được phạm vi ảnh hưởng.
Điều 8, ngoài các khoản đóng góp của thiện tín và hội viên, Hội sẽ chi thêm 1 đồng để tổ chức các ngày lễ rằm và lễ vía. Muốn tổ chức các ngày lễ có quy mô lớn thì các thành viên trong Ban Trị sự phải cùng nhau bàn bạc, xây dựng kế hoạch cũng như định mức kinh phí sẽ chi ra.
Điều 9, khi bố mẹ (chồng hoặc vợ) qua đời thì Ban Trị sự nam hay nữ đều phải cử người đến tụng kinh và không được nhận tiền công đức. Các hội viên phải đến dự tang lễ và chia buồn cùng gia quyến. Nếu quãng đường đưa tang gần các thành viên sẽ đưa người quá cố ra đến mộ phần, còn nếu xa sẽ tùy tâm người đưa tiễn. Nữ hội viên trong lúc đưa đám phải mặc áo tràng, mang theo một cây phướn và một tấm bảng có ghi dòng chữ “Phật giáo Thiện Hữu hội”. Nam hội viên phải mặc áo dài, quấn khăn và tất cả sắc phục trên người đều chung một màu đen. Những người không phải là hội viên của Hội nếu có nhu cầu thì có thể thuê các dịch vụ này. Tùy theo quy mô đám và yêu cầu của gia chủ mà Hội sẽ thu các khoản kinh phí khác nhau.
Điều 10, các hội viên có mối quan hệ gần gũi muốn tới phúng điếu với tư cách cá nhân thì dùng kinh phí riêng của mình. Các hội viên trong lúc tới phúng điếu không được dùng bữa hay uống rượu tại nhà gia chủ.
Điều 11, nếu trong vòng 1 năm, hội viên nào không đóng đủ các khoản kinh phí mà Hội đã quy định thì sẽ bị gạch tên ra khỏi danh sách.
Điều 12, bài vị của các hội viên (người thân của hội viên) quá cố sẽ được đưa về chùa hội quán để phụng thờ. Những người không phải là hội viên nhưng muốn đem bài vị người thân về thờ thì mỗi tháng phải đóng tiền hương hỏa là 2 cắc.
Điều 13, các ngày lễ vu quy hay hỉ sự thì Hội sẽ không can dự mà để cho các hội viên tự do tổ chức theo phong tục của từng địa phương.
Điều 14, đúng 19 giờ ngày 29 hoặc 30 tháng 12 âm lịch hàng năm, tất cả các hội viên phải tập trung về chùa hội quán Phước Long để làm lễ cúng Phật và chúc mừng năm mới lẫn nhau.
Điều 15-16, Hội sẽ tổ chức nhóm họp theo chu kỳ vào các ngày 8/4, 15/7, 15/10 và 17/11. Đại hội thường niên của Hội sẽ được tổ chức vào ngày 14 tháng giêng. Nội dung chủ đạo trong các kỳ đại hội là xem xét các hoạt động của Hội, thông qua tình hình tài chính và bầu cử Ban Trị sự cho nhiệm kỳ mới. Các thành viên trong nhiệm kỳ cũ đều có quyền được tái ứng cử chức vụ.
Điều 17-18, các chùa Hội viên nếu muốn trùng tu, sửa sang chùa, mua sắm các vật phẩm, hương hoa, đèn dầu thì phải làm tờ trình gửi Ban Trị sự nam hoặc nữ phê duyệt.
Điều 19-20, nếu có người đến mời làm đám, cúng sao, giải hạn, cầu siêu,... thì các chùa hội viên phải thực hiện một cách nghiêm túc theo đúng các nghi thức chính thống của Phật giáo. Việc thu tiền lệ phí từ các công việc này sẽ tùy thuộc vào các chùa và Ban Trị sự sẽ không can thiệp.
Điều 21, nếu trong nội bộ Ban Trị sự xảy ra mâu thuẫn hoặc không thống nhất được đường lối, cách thức hoạt động thì Hội trưởng Danh dự sẽ là người đứng ra giải quyết.
Điều 22, đến kì đại hội, sau khi dứt ba hồi chuông các hội viên phải giữ trật tự để lắng nghe các bản báo cáo của Hội. Trong lúc nhóm họp, các thành viên không được bàn luận chính trị hay công kích các tôn giáo khác.
Điều 23, các hội viên phải tuyệt đối tuân thủ Điều lệ, Quy điều Nội trị và các quyết nghị của Hội5.
Như vậy, có thể thấy rằng dù chưa đưa ra được các đường lối chấn hưng một cách cụ thể, song các chủ trương của Hội Phật giáo Thiện Hữu đã góp phần thúc đẩy cho công cuộc hoằng dương chánh pháp. Điều này được thể hiện qua sự quan tâm tổ chức các ngày lễ vía, qua việc quy tụ các tín đồ nhà Phật để cùng nhau thực hiện các nghi thức Phật sự; qua việc phát huy tinh thần từ bi, cứu khổ của đức Phật để giúp nhau vượt qua những khó khăn, thách thức trong cuộc sống. Trong bối cảnh nhiều giá trị văn hóa của dân tộc đang đứng trước nguy cơ bị đồng hóa thì các chủ trương của Hội còn góp phần gìn giữ, phát huy các giá trị cao đẹp của Phật giáo cũng như giúp cho tôn giáo này đến gần hơn đối với đời sống của quần chúng nhân dân. Đây cũng là những vai trò quan trọng mà Hội đã thể hiện được trong quá trình tồn tại.
1. Hội Phật giáo Bắc Kì (1938), “Tâm lí của Đại sứ lao công Pháp J. Godart đối với đạo Phật” in trong Hoàn cầu Phật học, Trung ương Hội quán Phật giáo Bắc Kì xuất bản.
2. Diệu Phước (1937), “Ngài Lao công Đại sứ Justin Godart với Phật giáo”, Pháp Âm Phật học, số 4, tr. 184-186.
3. Xem thêm, Thích Thiện Hoa (1970), 50 năm chấn hưng Phật giáo Việt Nam, tập 1, Viện Hóa Đạo và Giáo Hội Phật giáo Việt Nam thống nhất xuất bản, TP. Hồ Chí Minh.
4. Hội Lưỡng Xuyên Phật học (1938), “Tường thuật lễ đại hội”, Duy Tâm Phật học, số 29, tr. 202-206.
5. Hội Phật giáo Thiện hữu (1936), Quy điều nội trị, Nhà in Mekong, Sa Đéc, tr.5-12.
Bình luận bài viết