Thông tin

CÁC CHÙA ĐƯỢC TRIỀU NGUYỄN PHONG SẮC TỨ

 

CHÁNH TÂM HẠNH*

 


 

Sắc tứ 敕賜, Sắc là tờ lệnh của vị vua, Tứ là ban cho, phong tặng cho. Theo Từ điển phổ thông, Sắc tứ là một loại giấy tờ được ban cho một ngôi chùa hay một người nào đó. Nội dung của sắc tứ thường ghi rõ các quy định về việc xây dựng, tu sửa, bảo quản ngôi chùa, những đồ vật, vật dụng (vật thể) hoặc phẩm tước, ân điển (phi vật thể), hoặc các quy định về việc thực hiện các nghi lễ tôn giáo. Sắc tứ không phải là một loại tiền tệ và không thể được sử dụng để mua bán hoặc trao đổi hàng hóa.

Dưới triều Nguyễn, có khá nhiều ngôi chùa được vua nhà Nguyễn ban sắc chỉ, chấp nhận chính thức và có tên trong danh sách của Bộ Lễ1.

Được nhận sắc tứ là một ân điển và vinh dự vô cùng to lớn đối với bất kỳ tự viện nào. Vì thế, nghi lễ đón phong sắc vô cùng đặc biệt. Nghi lễ tiếp nhận sắc tứ bao gồm các bước sau: Điều kiện để được tiếp nhận sắc tứ; Chuẩn bị cho nghi lễ; Tiếp đón và đọc sắc tứ; Cúng dường và lưu giữ sắc tứ. Sắc tứ thường được đọc bởi các quan chức hoặc giáo sĩ. Các quan chức đọc sắc tứ thường là các quan chức trong triều đình hoặc các quan chức tôn giáo.

Khi đọc sắc tứ, người đọc cần phải đọc to, rõ và trang trọng để tôn vinh giá trị của sắc tứ. Đọc sắc tứ cũng giúp người đọc hiểu rõ hơn về nội dung của sắc tứ và có thể giải thích cho người khác hiểu được giá trị của sắc tứ. Người nghe đọc sắc tứ thường là những người trong cộng đồng tôn giáo hoặc những người quan tâm đến lịch sử và văn hóa Việt Nam. Sắc tứ thời triều Nguyễn có đặc thù là được viết bằng chữ Hán. Sắc tứ phản ánh hệ thống hành chính với những địa danh và đơn vị hành chính mang niên đại cụ thể. Sắc tứ thể hiện vai trò tối thượng của nhà vua trong việc trị vì muôn dân và cai quản cả thế giới thần linh, kết hợp với các tín ngưỡng và đời sống tâm linh, có quan hệ mật thiết với các lễ hội dân gian và sinh hoạt văn hóa của làng, xã.

Sắc tứ chỉ có duy nhất một bản. Trong mỗi bản sắc tứ, niên đại tuyệt đối chính xác đến tận ngày, tháng, năm. Về giá trị theo giới chuyên môn đánh giá, sắc tứ thể hiện rõ rệt dấu ấn uy quyền của các vị vua, niên đại ghi ở cuối văn bản gồm triều vua và ngày tháng ban sắc là thông tin tuyệt đối chính xác làm căn cứ để người đời sau có thể hiểu về phong cách mỹ thuật, thư thể của từng thời kỳ lịch sử. Theo sách Đại Phùng tổng khoán ước: “Sắc đưa về đến chùa, chép thêm ra một bản, giống như bản chính (đều dùng giấy vàng mực đen, lấy người có chữ đẹp trong thôn viết đằng tả), rồi lập một hương án, đặt lên, vái 5 vái (thay thần tạ ơn Vua). Sau đó, hóa bản sao đi, còn bản chính thì rước vào trong chùa, tự viện, đình”2.

Các vị vua triều Nguyễn sử dụng sắc tứ thường được phong sắc cho chùa; còn sắc phong thì thường được dùng phong thần và các vị thành hoàng trong làng. Chùa và đình là hai khái niệm khác nhau. Đình là một ngôi đền nhỏ, thường được xây dựng ở các làng quê Việt Nam. Trong đời sống người dân Việt Nam khi xưa, đình làng khi khởi dựng được phục vụ nhiều mục đích, từ thờ tự, tế lễ, là nhà hội đồng chung, là nơi xử kiện, nộp sưu thuế, nơi nghỉ cho khách lỡ độ đường, đình làng cũng là nơi vui chơi, nơi sinh hoạt ca hát, có đình làng còn là lớp học… Đình làng còn được coi như biểu tượng của quyền lực làng xã, nó có chức năng như một ngôi nhà lớn của cộng đồng. Trong khi đó, chùa là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo, là nơi tập trung sinh hoạt, tu hành và thuyết giảng đạo Phật của các tăng, ni. Mọi người kể cả tín đồ hay người không theo đạo đều có thể đến thăm viếng, nghe giảng kinh hay thực hành các nghi lễ Phật giáo. Sở dĩ, người ta thường hay nói cửa chùa rộng mở là vì ai bước chân vào chùa cũng được hết. Vua, quan bước chân vào chùa cũng bằng cửa đó. Người buôn thúng bán nia hay những kẻ ăn mày cùng đinh trong xã hội đi vào chùa cũng bằng cửa đó.

Trước năm 1945, đứng đầu chùa sắc tứ là một vị Tăng cang và một vị trụ trì. Chùa được sắc tứ được xem như là chùa quan. Việc bổ nhiệm chức trụ trì chùa sắc tứ do Bộ Lễ và Phủ Tôn Nhân3 đảm nhận, nhất là với những quốc tự hoặc là những ngôi chùa do hoàng thân xây dựng. Ban đầu, vua là người chọn Tăng cang, rồi lệnh cho Bộ Lễ cấp độ điệp và giao chùa cho cai quản. Sau này, khi nhiều chùa được thành lập, nếu chùa nào thiếu chức Tăng cang sẽ trình Bộ Lễ tìm người mới, trình lên nhà vua sát hạch, phê chuẩn và cấp sắc chỉ. Các vị Tăng cang, trụ trì thường được triều đình miễn thuế khóa, sưu dịch, được cấp lương hàng tháng, cấp pháp phục. Triều đình quy định rõ số sư tăng trong các chùa sắc tứ, chùa công, quốc tự, tùy theo yêu cầu của triều đình. Các sái phu, người canh giữ, trong chùa cũng được quy định rõ không chỉ số lượng mà còn cả nguồn gốc dân cư để dễ bề kiểm soát.

Các đời vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đều tổ chức sát hạch cấp giới đao độ điệp, quản lý số sư sãi chân tu, và chọn ra người giỏi phái đến các chùa của nhà nước trông coi. Những tăng sĩ tinh thông Phật pháp đã qua sát hạch đều được triều đình bổ dụng, đến coi giữ các chùa công. Lễ vật cúng tế được quy định và kiểm tra cụ thể về số lượng, trọng lượng, hình thức, thể lệ.

Chức Tăng cang, ban đầu được vua Gia Long đặt cho chùa Thiên Mụ. Các vua kế tiếp là Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức lập thêm nhiều quốc tự và cử Tăng cang quản lý các chùa đó. Cũng có những trường hợp ngoại lệ như trong việc tổ chức tăng chế ở Phật giáo Ngũ Hành Sơn là vào tháng 10 năm Thành Thái thứ 7 (1895), triều đình còn sắc chuẩn thêm một vị Tăng cang cai quản chung hai chùa Tam Thai và Linh Ứng. Trong khi đó, ở mỗi chùa vẫn duy trì chức trụ trì để cai quản riêng. Tăng cang được triều đình chuẩn cấp cho xây dựng nhà ở riêng biệt. Người đầu tiên được vinh dự này là Thiền sư Ấn Lan - Tổ Huệ - Từ Trí, lúc bấy giờ đang giữ chức trụ trì chùa Linh Ứng4.

Sử liệu triều Nguyễn ghi nhận, thời chúa Nguyễn có khoảng 26 ngôi chùa sắc tứ tại miền Trung, trong đó chỉ riêng thời chúa Nguyễn Phúc Khoát đã có 7 ngôi chùa ban sắc tứ và biển ngạch5. Dưới thời Tự Đức, có 245 chùa thuộc hàng danh lam được sửa chữa trên cả nước6. Tuy nhiên, việc vua hay hoàng thân và các quan triều đình nhà Nguyễn sửa chữa thì cũng chưa hẳn là đã ban sắc tứ. Cho đến hiện nay, các vị vua khác của triều Nguyễn ban sắc tứ bao nhiêu chùa thì chưa có thống kê đầy đủ.

Bên cạnh việc Sắc tứ 敕賜 cho biển ngạch tên chùa, các bậc vua chúa còn ban Sắc tứ để tặng thưởng hoành phi, liễn đối (vật thể), sắc tứ giới đao độ điệp, hoặc tặng phẩm trật hay sắc tứ để tổ chức các đại giới đàn truyền giới (gọi là Giới đàn sắc tứ, tức giới đàn do vua ân chuẩn và triều đình khai mở). Việc ban sắc tứ và treo biển ngạch tại các chùa bắt đầu dưới thời chúa Nguyễn và nó được chính quyền Đàng Trong đặc biệt chú trọng. Thoát thai từ một lực lượng cát cứ tách ra khỏi sự kiểm soát của chính quyền trung ương, trong suốt quá trình xây dựng quyền lực trên vùng đất Đàng Trong việc khẳng định tính chính danh luôn là vấn đề đặt ra cho chính quyền chúa Nguyễn. Do đó, việc phổ biến các biểu tượng quyền lực nhà nước thông qua các dấu ấn, triện khắc trên biển ngạch và các loại hình chuông, khánh, đối liễn treo ở chùa và các không gian công cộng mang ý nghĩa to lớn trong việc khẳng định quyền lực tối cao tính chính danh của chính quyền chúa Nguyễn. Trên tất cả các văn bản sắc tứ, các vua triều Nguyễn bao giờ cũng có ấn, có triện của mình vào đó. Con dấu là biểu tượng quyền lực tối cao của một thể chế nhà nước. Ngoài việc khắc trên biển ngạch, các dấu ấn, triện còn được tìm thấy trên chuông, khánh, đối, liễn, ngự đề thi, văn bia...

Về chất liệu giấy của các bản sắc phong, qua các đời triều Nguyễn đều có những quy định cụ thể nhằm thể hiện uy đức của hoàng đế và dấu ấn của ngự trị. Về chất liệu giấy, trong sách KhâmĐịnh Đại Nam Hội Điển sự lệ, viết: “Năm Minh Mạng thứ 10 (1829) tấu chuẩn: Phụng chiếu cáo thứ giấy các trục hạng nào, xét điển lệ nhà Thanh, về lệ chức tạo Ty Đô Thủy ở Bộ Công nói rằng: Về cáo mệnh tứ phẩm trở lên dùng thứ bằng tơ chín 5 sắc, ngũ phẩm là 3 sắc, sắc mệnh dùng thứ lụa trắng... Lại nói rằng: Các quan văn, võ có công đời đời được phong tước, cấp cho sắc dài một trượng, giấy vàng có vẽ rồng chung quanh... Vả lại, nước ta nguyên không có phường dệt gấm, nếu dùng những bức bằng tơ mà giao cho Cục Thêu thì không khỏi phí tổn, nhân công lại khá nhiều mà từ trước đến nay các loại cáo sắc về điển lệ phong tặng dùng các vải lụa ấy rồi, nên nếu dùng loại ấy cho các bản sắc phong thì khó mà phân biệt. Nghĩ nên chiếu theo lệ của nhà Thanh, những cáo sắc dùng bằng giấy, châm chước quy định làm cáo sắc, để biết sự vẻ vang về xuất thân dương danh, mà tờ giấy đẹp lại bền, cũng có thể để lâu được. Nay đem kiểu mẫu về cáo sắc giao cho quan ở Vũ Khố phải chuẩn bị làm trước để đến kỳ lĩnh ra mà viết. Tên gọi loại giấy đó là “Long Đằng”7. Đây là loại giấy tốt nếu biết cách bảo quản có thể tồn tại đến vài trăm năm. Về chữ viết thì cũng có quy định. Vào năm Minh Mạng thứ 3 (1822) thì quy định: Từ nay về sau, các sắc biểu văn thư dùng ở các nha chỗ dòng niên hiệu những chữ năm... tháng... ngày đều dùng chữ viết đơn, chuẩn từ sau đều dùng chữ viết kép như những loại chữ nhất (一) viết là (壹), nhị (二) viết là (貳) để phòng sự thay đổi. Đến năm Minh Mạng thứ 15 (1834) có chỉ: Lại nghị chuẩn lần này việc ban cấp các sắc là buổi ban đầu, cung chiếu nghị định, có khi dùng giấy sắc vàng, có khi dùng giấy sắc bạc nếu cứ viết theo như trước, thì người viết có khi nhầm lẫn sợ không khỏi hư phí. Xét nên in ra mà dùng để cho được giản tiện. Hiện đã thuê thợ khắc bản in, kiểm chữ, in mà dùng, cũng được ngay ngắn. Còn chuyến này một loạt ban cấp khá nhiều và rắc rối, xin chiếu xuống cho Bộ Công, huy động thợ do Bộ Lại lĩnh vật liệu, ra chỉ thị cho quy thức, làm ngay xong việc, sau này có khắc thêm chữ gì và tu bổ bản in, đến kỳ do bộ ấy huy động thợ cho làm. Như vậy, về chữ viết và các bản sắc phong có sự linh hoạt. Tùy thuộc vào mỗi ông vua mà ban ra lệ chữ viết trong các bản sắc phong. Tất cả các văn bản hiện lưu trữ đều được sử dụng bằng tiếng Hán. Các văn bản này đều được sử dụng loại giấy Long Đằng. Các chữ viết trên các văn đều được in sẵn bằng các bản gỗ mộc khắc chữ ngược. Hoa văn trang trí: Kể từ khi chúa Nguyễn vào phương Nam mở cõi, Ông dần dần có ý định độc lập với triều đình chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Theo Đại Nam thực lục tiền biên, năm 1744, quần thần dâng biểu tôn chúa Nguyễn Phúc Khoát lên ngôi Vương. Sau hai ba lần bầy tôi nài xin, chúa đồng ý rồi cho đúc ấn quốc vương. Như vậy, chúa Nguyễn Phúc Khoát, ngày 12 tháng 4 năm 1744, chúa tự ý xưng Vương, lấy hiệu Võ Vương8. Ông quyết định thay đổi nghi lễ mục đích muốn tạo nên một “một cõi y quan văn hiến”.

Có lẽ cũng ảnh hưởng từ các chúa Nguyễn, các bản sắc phong của triều Nguyễn đều được trang trí lộng lẫy theo kiểu “long vân ẩn hiện”, chính là đặc trưng của văn hiến cung đình triều Nguyễn. Tuy nhiên, mỗi vị vua đều có những dấu ấn riêng về cách trang trí hoa văn. nhưng tất cả đều nhằm mục đích thể hiện sự uy nghi của mình, đồng thời để phân biệt với các sắc phong của những vị vua khác nhau.

Phôi giấy sắc phong dựa trên hoa văn Hồi Long triều Nguyễn là viền dạng hoa văn chữ vạn 5 ô chữ “thọ” dạng chữ nhật khuyết góc, mỗi hình chữ nhật lại chứa 5 chữ “thọ” tròn, theo quan điểm “ngũ phúc thọ vi tiên”. Rồng theo thế gió, uốn khúc chuyển động nhẹ nhàng, chân năm ngón đạp mây, ngoảnh đầu phun châu nhả ngọc, đuôi xoáy theo chiều kim đồng hồ, mây xuất hiện trên đầu ngực, lưng, bụng, đuôi rồng, và lác đác xuất hiện trên toàn đạo sắc. Đạo sắc có rất nhiều chấm tròn tượng trưng cho tinh tú ngọc châu.

Từ năm 1600, Nguyễn Hoàng lúc ấy đã 76 tưổi, quyết tâm trở lại Đàng Trong mưu đồ giang sơn. Ông nhận thấy sự ảnh hưởng to lớn của Phật giáo trong mưu đồ thu phục lòng dân, nên Nguyễn Hoàng và các vị chúa Nguyễn sau đó đã có những hành động cụ thể để phát triển đạo Phật.

Các chúa Nguyễn cho xây dựng hàng trăm ngôi chùa trên vùng đất Đàng Trong. Khoảng cuối thế kỷ XVII, bắt đầu hình thành hệ thống chùa sắc tứ. Theo đó, chính quyền có chính sách quan tâm đặc biệt đối với các ngôi chùa công, chùa sắc tứ qua việc chu cấp tiền bạc, ruộng đất; tu sửa nâng cấp, ban đồ thờ, tượng Phật, pháp công pháp khí; bổ tăng sái trông nom… Chùa sắc tứ phân bố ở hầu hết các dinh, trấn từ Quảng Bình đến Phú Yên (Nam Bộ ít hơn do khai phá sau), trong đó tập trung nhiều nhất ở vùng Thuận Quảng (Thuận Hóa và Quảng Nam).

Chùa sắc tứ thường diễn ra các hoạt động Phật giáo có quy mô lớn của chính quyền chúa Nguyễn nhằm mục đích dẫn dắt, chấn hưng đời sống Phật giáo ở các dinh, trấn9. Đối với hàng ngũ tăng sãi: một mặt, các chúa Nguyễn có biện pháp quản lý, sát hạch, kiểm tra giới điệp, chấn chỉnh pháp giới trong hàng ngũ tăng sãi, ai vi phạm bị đuổi về địa phương bổ hạng thường dân10. Mặt khác, chính quyền thường xuyên tổ chức các hoạt động hoằng pháp, thuyết pháp kết hợp với các giới đàn có quy mô hàng trăm hàng nghìn người tham gia. Các giới đàn có 3 loại, gồm: Sa di giới, Tì kheo giới và Bồ tát giới, trên cơ sở sát hạch chính quyền cấp văn điệp cho các tăng chúng thụ giới (văn điệp có đóng dấu Quốc vương)11.

Để bố trí tăng -ni cho các chùa sắc tứ, nhà Nguyễn thi hành chính sách kiểm tra trình độ của tăng sĩ và chi cấp lương bổng, lễ vật trong chùa sắc tứ. Triều đình đề cao việc thông hiểu giáo lý nhà Phật, nên việc kiểm tra trình độ tăng sĩ được tổ chức khá thường xuyên nhằm tìm ra người giỏi, hạn chế kẻ núp bóng cửa Phật để mưu sinh. Đồng thời, cũng nghiêm minh đối với công tác quản lý nhân sự lúc bấy giờ. Các đời vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đều tổ chức sát hạch cấp giới đao12 độ điệp13.

Vua Gia Long và vua Tự Đức đều ban một chỉ dụ thống nhất quản lý số sư sãi chân tu. Năm 1804, vua Gia Long ra lệnh: “Sư sãi có kẻ chân tu thì lý trưởng sở tại phải khai rõ tính danh quán chỉ, đem nộp ở quan trấn để biết rõ số”14. Năm 1830, vua Minh Mạng ra chỉ dụ: “Lần này, sư các chùa đến kinh, chuẩn cho Bộ Lễ xét thực, ai giữ được giới luật tinh nghiêm, thông được giáo lý nhà Phật, đều chiếu cấp cho một độ điệp để cho yên tâm mà trì giáo, chứng được cơ mầu nhiệm của đạo Thiền, tạp dịch và thuế thân đều khoan miễn cho cả (…). Lần này, sư ở chùa các hạt gọi đến kinh, gồm 53 người, đã qua Bộ Lễ sát hạch lập thành danh sách, tâu lên, nay chuẩn thưởng cấp cho 12 người vào hạng xảo thông đều 5 lạng bạc, 38 người vào hạng hơi thông đều 3 lạng bạc, lại ban tiệc chay ở chùa Thiên Mụ một lần, chuẩn đều cấp độ điệp giới đao còn 3 người không thông, không chuẩn cho thưởng cấp, để tỏ ra có sự phân biệt, đều khiến cho về”15. Triều đình còn ra chỉ dụ: “Nếu tăng đạo nào không được cấp cho tờ điệp mà tự tiện gọt đầu, thì phải phạt 80 trượng. Các tăng đạo trụ trì ở các chùa, quán nào và thầy dạy học của các tăng đạo mà tự tiện cấp tờ điệp thì cùng chịu tội, đều phải đuổi về nhà cả (ghi tên vào sổ chịu sai dịch)”16.

Liên tiếp nhiều năm, dưới thời vua Minh Mạng và vua Thiệu Trị tiến hành kiểm tra giới luật, cấp văn bằng và chọn ra người giỏi phái đến trông coi các quốc tự. Về văn bằng xét cấp cũng theo trình tự xem xét đề xuất từ các quan địa phương, như hương hào, kỳ dịch, lý trưởng từ xã, huyện, phủ tỉnh trình đến Bộ Lễ. Sau đó, Bộ Lễ mới xét cấp văn bằng. Việc cấp văn bằng này cũng được căn cứ xem xét trên các văn bản mà các thời vua trước ban hành. Văn bằng được cấp cũng ghi rõ ngày tháng năm và có đóng triện17. Sau khi kiểm tra, những tăng sĩ tinh thông Phật pháp được triều đình bổ dụng coi giữ chùa công. Đặc biệt, những tăng sĩ được giao giữ chùa được ban sắc tứ đều có lương bổng, gạo muối do triều đình ban cấp. Tùy mỗi thời kỳ hay mỗi ngôi chùa sắc tứ được coi giữ mà số lương bổng có khác nhau. Lễ vật cúng tế được quy định và kiểm tra rất cụ thể về số lượng, trọng lượng, hình thức và thể lệ. Những quy định tỉ mỉ, rườm rà, phức tạp không chỉ cho thấy thái độ coi trọng của triều Nguyễn đối với các nghi thức Phật giáo nói riêng, các nghi thức tế lễ nói chung, mà còn thông qua đó có thể nhận diện được vị trí và vai trò của từng ngôi chùa sắc tứ đối với hoạt động Phật giáo của triều đình.

Danh sách các chùa được sắc tứ

Năm 1601, Chùa Thiên Mụ hay còn gọi là chùa Linh Mụ.

Chùa nằm bên bờ Bắc sông Hương thuộc địa phận xã Hương Long, cách trung tâm thành phố Huế 5km. Chùa do chúa Nguyễn Hoàng khởi dựng. Chùa được ban sắc tứ và xem là chùa công.

 


Chùa Thiên Mụ, Huế

 

Năm 1689, Sắc tứ Quốc Ân tự. Chùa ở làng Hà Trung, nay thuộc xã Vinh Hà, huyện Phú Lộc. Đến đời chúa Minh Vương Nguyễn Phúc Chu (1691-1725), chúa đã ban cho chùa bức hoành bốn chữ “Linh Thứu Cao Phong” và hai bức liễn đối có lạc khoản là “Quốc Vương Thiên Túng Đạo Nhân ngự đề”.

Năm 1691, Sắc tứ Thập Tháp Di Đà. Chùa Thập Tháp Di Đà (còn gọi là chùa Thập Tháp) nằm ở phường Nhơn Thành, thuộc thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định, cách trung tâm thành phố Quy Nhơn khoảng 30 km về phía Bắc. Chùa có Sắc Tứ Thập Tháp Di Đà Tự do quốc chúa Nguyễn Phúc Chu ban trong thời kỳ trị vì 1691-1725. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí, ghi chép về chùa Thập Tháp rằng: “Sau chùa có 10 tòa tháp Chàm, nhân đó thành tên, nay mười tháp đã đổ nát. Chùa do Hòa thượng Hoán Bích (thường gọi Nguyên Thiều Siêu Bạch) dựng nên dưới thời Thái tôn Hoàng đế triều Nguyễn nước ta”. Thiền sư Nguyên Thiều (1648-1715) là vị tổ thứ 33 thiền phái Lâm Tế Chánh Tông. Bức hoành phi “Sắc tứ Thập Tháp Di Đà Tự” treo giữa cửa chính Chánh điện là do chúa Nguyễn Phước Chu (1691-1725) sắc ban, Hòa thượng Tổ Ấn - Mật Hoằng trùng khắc lại vào năm 1821, Minh Mạng thứ nhất.

Năm 1691, Sắc tứ Cổ Tích Thiên Tứ. Chùa cổ Sắc Tứ Cổ Tích Thiên Tứ, thuộc địa phận thôn Mỹ Trạch, phường Ninh Hà, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa, cách thành phố Nha Trang khoảng 28km về hướng Bắc. Chùa Sắc tứ cổ Tích Thiên Tứ được vua ban tặng Sắc phong năm 1691. Chùa đã từng được vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức ban cho nhiều sắc phong nhưng đã bị mất mát, thất lạc do chiến tranh.

Năm 1695, Sắc tứ Thiền Lâm tự. Nay là chùa Thuyền Lâm ở 150 đường Điện Biên Phủ (Huế), nằm ngay phía trước bên phải chùa Từ Đàm. Cho đến nay, chưa tìm được tài liệu để có thể biết chính xác chùa Thiền Lâm được ra đời vào tháng năm nào hồi cuối thế kỷ XVII. Năm 1695, chúa Nguyễn Phúc Chu cho xây dựng lại và trở thành chùa công với sắc phong tên Thiền Lâm Viện do HT Thạch Liêm khai sơn.

Năm 1696, Chùa Quang Hoa. Xã Phước Quang, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Chùa Quang Hoa hiện còn lưu giữ một số tư liệu Hán Nôm quý giá, trong đó có một số tư liệu có liên quan đến lịch sử khai sơn và tên gọi của chùa như sau: Do Quang Minh tự cổ tích danh lam, tiền niên hữu từ thượng lệnh trạch nhật trùng tu. Chí Bính Tí niên hữu thượng lệnh ban đề Sắc tứ Quang Minh Tự. (Chùa Quang Minh là một danh lam cổ tích, năm trước có lệnh trên ban xuống bảo chọn ngày trùng tu. Đến năm Bính Tí (1696) lệnh trên ban cho là Sắc tứ Quang Minh Tự). Một tư liệu được viết vào 24 tháng Giêng năm Chính Hoà 正和 thứ 19 (năm 1708) có ghi tên chùa là Sắc tứ Quang Minh Tự đã ghi như vậy. Một tư liệu là tờ Bẩm của sư Bích Phong 碧峰 viết vào năm Vĩnh Khánh 永慶 thứ 5 (năm 1733), chùa được trùng tu và đổi tên là: Sắc tứ Hoa Phong Tự: Kim mông ân chuẩn cải thử tự vi Sắc tứ Hoa Phong Tự (Nay đội ơn phê chuẩn đổi tên chùa này thành tên Sắc tứ Hoa Phong Tự). Một tư liệu ghi danh sách ba mươi vị tăng chúng xin miễn nhập bạ viết vào tháng 11 năm Vĩnh Hựu 永佑 thứ 7 (năm 1741) ghi tên chùa là Sắc tứ Hoa Phong Quan Tự: Sắc tứ Hoa Phong Quan Tự tăng chúng đơn kê (Đơn của tăng chúng của Sắc tứ Hoa Phong Quan Tự…). Sau năm Vĩnh Hựu thứ 7, tên của chùa được đổi là: Sắc tứ Quang Hoa Hộ Quốc Trường An Tự. Vì trong một tư liệu được viết vào năm Cảnh Hưng 景興 thứ 5 (năm 1744) và một tư liệu được viết vào năm Cảnh Hưng 景興 thứ 14 (năm 1754) đều có ghi: Tiền triều đức Minh Vương Sắc tứ Quang Minh Tự. Tiên Hoàng đức Ninh Vương Sắc tứ Hoa Phong Thiền Tự. Đương kim Hoàng thượng Sắc tứ Quang Hoa Hộ Quốc Trường An tự. (Triều trước đức Minh Vương sắc tứ là Quang Minh Tự. Tiên Hoàng đức Ninh Vương sắc tứ là Hoa Phong Thiền Tự. Đương kim Hoàng thượng sắc tứ là Quang Hoa Hộ Quốc Trường An Tự). Minh Vương tức chúa Nguyễn Phúc Chu ở ngôi từ năm 1691 đến 1725. Ninh Vương tức chúa Nguyễn Phúc Chú ở ngôi từ năm 1725 đến 1738. Chúa Nguyễn Phúc Khoát ở ngôi từ năm 1738 đến năm 1765. Chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng Vương, năm Giáp Tí (1744) đúc ấn Quốc Vương, nhưng trong các văn bản vẫn dùng niên hiệu vua Lê. Cảnh Hưng là niên hiệu của Lê Hiển Tông ở ngôi từ năm 1740 đến năm 1786. Một tư liệu khác bị mất niên đại có ghi là: Sắc tứ Quang Hoa Hộ Quốc Trường An Quan Tự. Như vậy năm tạo lập chùa phải là trước năm 1696, từ năm 1696 chùa có tên là Sắc tứ Quang Minh Tự, đến năm 1733 chùa đổi tên là Sắc tứ Hoa Phong Tự, năm 1741 có tên là Sắc tứ Hoa Phong Quan Tự. Còn tên gọi Sắc tứ Quang Hoa Hộ Quốc Trường An Tự phải có trước năm 1744 hoặc là năm 1744 tức năm Cảnh Hưng thứ 5. Hiện nay chùa có tên Sắc tứ Quang Hoa tự, mọi người thường gọi là chùa Quang Hoa. Theo quyển Danh mục Tu viện - Tịnh xá -Tịnh thất, niệm Phật đường tỉnh Bình Định của Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Bình Định in năm 2007, chùa Quang Hoa được tạo lập vào năm 1696, năm trùng tu là 1962. Ngày nay, chùa Quang Hoa bình yên án ngữ đối diện với cánh đồng lúa xanh. Bên trong khuôn viên chùa Quang Hoa không quá rộng rãi nhưng sự kết hợp hài hòa giữa 0kiến trúc truyền thống cổ kính như cổng tam quan với kiến trúc cổ kính trên lầu tam quan tôn trí tượng Phật Bà nghìn mắt nghìn tay, chánh điện, bảo tháp, mộ tháp trầm mặc, cùng các tượng Phật giáo và cỏ cây hoa lá xanh um tươi tắn, tất cả tạo nên một không gian Phật môn thiền định và an lạc.

 


Chùa Quang Hoa, Bình Định

(Còn tiếp)

 


*NCS khóa 3 - Học viện Phật giáo Việt Nam tại TPHCM.

1. Xưa kia, nhà Nguyễn có 6 bộ gồm: Bộ Hình, Bộ Binh, Bộ Lại, Bộ Hộ, Bộ Lễ, Bộ Công, quan đứng đầu mỗi Bộ được gọi là Thượng Thư.

2. Trịnh Cao Nguyên, Về bản chế phong thời vua Tự Đức ở làng Duy Viên, Tạp chí Cửa Việt, 2019, https://tapchicuaviet.com.vn/nguoi-dat-quehuong/ve-ban-che-phong-thoi-vua-tu-duc-o-lang-duy-vien-12029.html

3. Nhiệm vụ chính của cơ quan này là trông nom sổ sách của hoàng tộc, soạn thảo ngọc phả, việc ghi chép ngày sinh và ngày mất cùng sơ yếu lý lịch của mọi thành viên trong hoàng tộc, cộng thêm việc thờ cúng đền miếu trong hoàng tộc. Ban đầu, Tông Nhân phủ chỉ là nơi lưu giữ ghi chép, song về sau thì cơ quan này cũng có quyền hạn giải quyết các vấn đề có liên quan đến các Thân vương, Công tử và Công tôn trong hoàng tộc.

4. Tạ Quốc Khánh, Nhà Nguyễn với việc quản lý và hệ thống sử dụng chùa sắc tứ, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 06 (132), 2014, trang 31-45.

5. Trương Thúy Trinh, Một số khảo cứu về biển ngạch chùa sắc tứ ởĐàng Trong thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765), Tài liệu khoa học công nghệ, Liên Hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam, https://sti.vista.gov.vn/tw/Lists/TaiLieuKHCN/Attachments/324135/CVv250S52021010.pdf.

6. Tạ Quốc Khánh, Nhà Nguyễn với việc quản lý và hệ thống sử dụng chùa sắc tứ, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 06 (132), 2014, trang 31-45.

7. Bùi Cao Cường, Một vài quy định sắc phong thần thời Nguyễn, Bảo tàng Tỉnh Hải Dương, 2023, https://baotang.haiduong.gov.vn/ViewDetail/ZKYzQBlnyg4@/m%E1%BB%99t-v%C3%A0i-quy-%C4%91%E1%BB%8Bnh-c%E1%BB%A7a-s%E1%BA%AFc-phong-th%E1%BA%A7nth%E1%BB%9Di-nguy%E1%BB%85n.html

8. Võ Quang Yến, Nguyễn Phúc Khoát (1714-1765) vị chúa Nguyễn đầutiên xưng Vương, Tạp chí Huế xưa và nay, 2008, https://nghiencuulichsu.com/2017/11/09/nguyen-phuc-khoat-1714-1765-vi-chua-nguyen-dau-tien-xung-vuong/

9. Trương Thúy Trinh, Chính quyền chúa Nguyễn với Phật Giáo ĐàngTrong ( Giai đoạn 1558-1777), Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 11(179), 2018, trang 12-30.

10. Quốc sử quán triều Nguyễn, Minh Mệnh chính yếu, Nxb. Thuận Hóa, 2004, tr.121-122.

11. Thích Đại Sán, Hải ngoại Ký sử, Nxb. Đại học Sư Phạm, 2015, tr.136-137.

12. Theo Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự quyển 3 chép, lúc đức Phật ngự tại thành Thất La Phiệt, có tỳ-kheo muốn may y, phải dùng tay xé vải, khiến vải bị rách mà may y không được nên Phật mới cho phép dùng dao. Nhóm Lục Quần tỳ-kheo thừa cơ dùng các chất báu trang trí cán dao, nên đức Phật quy định dao phải bằng sắt, dài sáu ngón tay, hình cong như cánh quạ. Giới Đao dùng để cạo tóc hoặc để cắt vải, xén y khi cần may vá.

13. Còn gọi là Độ Duyên (度緣), là giấy chứng nhận do quan phủ cấp khi Tăng Ni xuất gia, tức Chứng Điệp Tu Sĩ, trên đó có ghi ngày tháng năm xuất gia, tên các vị quan chứng minh và dấu ấn.

14. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Nxb. Giáo dục, 2007, tập 1, trang 587.

15. Nội các triều Nguyễn, Khâm Định Đại Nam hội điển sử lệ, Nxb. Thuận Hóa, tập 4B , trang 361.

16. Nội các triều Nguyễn, Khâm Định Đại Nam hội điển sử lệ, Nxb. Thuận Hóa, tập 6 , trang 173

17. Nguyễn Đại Đồng, Tìm hiểu về việc phong tăng cương và cấp độ điệp giới đao: Trường hợp của tổ Phúc Chỉnh, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, 2019, https://tapchinghiencuuphathoc.vn/tim-hieu-viec-phong-tang-va-cap-do-diep-gioi-dao-truong-hop-to-phuc-chinh.html.

 

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 9)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 8)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 7)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 22
    • Số lượt truy cập : 6709630