Thông tin

CÁC CHÚA NGUYỄN VỚI VIỆC

PHÁT TRIỂN PHẬT GIÁO Ở ĐÀNG TRONG

 

LÊ THỊ THU HIỀN*

 

1. Cơ sở xác lập vị thế của Phật giáo ở Đàng Trong

Nhờ sự vấn kế khôn ngoan của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, Nguyễn Hoàng đã tìm đến với vùng đất Thuận - Quảng, nơi được mệnh danh là “Ô châu ác địa”. Chỉ một thời gian ngắn, với những chính sách đối nội và đối ngoại khôn khéo, Nguyễn Hoàng đã dần dần biến hai xứ Thuận - Quảng thành một vùng đất trù phú. Lãnh thổ Đàng Trong tiếp tục mở rộng lãnh thổ về phương Nam bởi những người kế tục sự nghiệp chúa Tiên - Nguyễn Hoàng. Lúc này bên cạnh việc xây dựng bộ máy chính quyền, quân đội, đặt luật lệ, phát triển kinh tế, vấn đề đặt ra là phải sử dụng hệ tư tưởng nào để cai trị ở vùng đất mới? Câu trả lời của các chúa Nguyễn là: Phật giáo. Sự lựa chọn đó có thể xuất phát từ các cơ sở sau:

Thứ nhất, các chúa Nguyễn đề cao Phật giáo thay cho Nho giáo - ý thức hệ tồn tại ở Đàng Ngoài nói riêng và Đại Việt nói chung đã hơn ngàn năm xuất phát sâu xa bởi quan niệm về tính chính thống của quyền lực. Sự ly khai của chúa Nguyễn cùng việc xây dựng một vương triều mới đối lập với chính quyền Đàng Ngoài đặt chúa Nguyễn vào tình thế “bất khả thi” khi muốn đề cao Nho giáo với quan điểm “trung quân”, “quân thần”. Vì vậy, không phải vô cớ mà Nguyễn Hoàng cho giương cao khẩu hiệu “phù Lê diệt Trịnh”, thực ra là nhằm tạo tính chính nghĩa cho hành động lập quốc của mình. Và cho đến năm 1744, khi Nguyễn Phúc Khoát xưng vương, công khai lập một nước riêng, thì vẫn coi mình là thần dân nước Việt, sử dụng niên hiệu của vua Lê trong tất cả các văn bản, giấy tờ. Li Tana đã có một nhận xét rất xác đáng về vấn đề này: “Không thể sử dụng Khổng giáo vì những khẳng định cơ bản của Khổng giáo trực tiếp mâu thuẫn với vị trí của họ Nguyễn bị coi là một chế độ ly khai và nổi loạn đối với triều đình. Tuy nhiên, họ Nguyễn lại không dám đi quá xa và không dám tìm ra một giải pháp hoàn toàn khác biệt với truyền thống của người Việt ở phía bắc. Trong những hoàn cảnh đó, Phật giáo Đại Thừa đã cung cấp một giải pháp đáp ứng nhu cầu của họ Nguyễn. Phật giáo, một mặt đẩy mạnh bản sắc dân tộc của người Việt và mặt khác làm lắng đọng các mối lo âu của người di dân mà không đặt lại vấn đề về tính hợp pháp của những người cai trị” [10; tr.194]. Nói cách khác, Phật giáo với tư tưởng khoáng đạt sẽ không chấp nê sự chính thống hay phản nghịch của chúa Nguyễn.

Thứ hai, Phật giáo có khả năng cố kết lưu dân người Việt trên vùng đất xa lạ cũng như cộng đồng dân cư cũ - mới, tức Chăm - Việt. Trong giai đoạn đầu của cuộc Nam tiến, những người Việt di cư sống lẫn lộn với người Chăm. Lúc ấy, văn hóa của người Chăm vẫn còn nhiều và đôi lúc ảnh hưởng đến người Việt. Vì lẽ đó, người Việt phải tìm về với cội nguồn văn hóa của mình và Phật giáo mới có những sự tương đồng trong việc thờ tự của người Chăm khiến họ không cảm thấy bỡ ngỡ khi tiếp cận. Vậy nên sử dụng Phật giáo là hoàn toàn phù hợp, thỏa mãn được nhu cầu của cả hai bên. Nói như nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Thuần thì: “Quá trình tạo lập xứ Đàng Trong cũng là quá trình liên tục tổ chức khẩn hoang. Lực lượng khẩn hoang đông đảo nhất chính là những người nông dân nghèo khổ. Họ không có điều kiện để cho con em tới trường, và với số ít ỏi có điều kiện thì đạo thánh hiền mà Nho gia rất mực tôn kính, trong họ cũng đã dần dần bớt thiêng. Họ tìm đến những gì phù hợp hơn, thiết thực vỗ về và an ủi họ khi đối mặt với vùng đất mới bao la và dữ dội. Họ cần trước hết là những bài học về đức làm người, cụ thể, giản dị và sinh động chứ không phải là (bởi vì cũng khó có thể là) sự nghiền ngẫm thiên kinh vạn quyển với vô số những triết lý cao siêu. Và, Phật giáo với đội ngũ các nhà tu hành giàu nhiệt huyết nhập thế một cách tích cực đã mau chóng đáp ứng được điều này. Ở đâu có đất mới được mở ra là ở đó có chùa mới dựng. Tiếng chuông chùa và tiếng tụng kinh chẳng khác gì lời ru êm ái đối với một xã hội lầm lũi” [11, tr.156].

Trên bước đường Nam tiến, những lớp di dân người Việt dù đi tới vùng đất nào vẫn mang theo tâm thức văn hóa truyền thống. Tâm thức văn hóa truyền thống Việt cũng chính là cơ sở về mặt tinh thần giúp họ trụ vững trên miền đất mới mà không bị đồng hóa ngược bởi nền văn hóa bản địa. Nhận thức được điều này, chúa Nguyễn tiếp tục phát huy những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc trên vùng đất mà mình cai trị. Cùng với việc thờ cúng tổ tiên, tục thờ Thành Hoàng được khuyến khích. Những ngôi đình làng được dựng lên khắp nơi để cố kết nối quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng. Đặc biệt, các chúa Nguyễn hết sức xiển dương và tạo mọi điều kiện cho Phật giáo Đại Thừa, một tôn giáo quen thuộc của người Việt, gây dựng ảnh hưởng trong xứ sở của mình, coi đó là những nền tảng cho những nhu cầu về ý thức và tâm linh đối với dòng họ cầm quyền. Phật giáo được xem như một hệ tư tưởng quy tụ ủng hộ về mặt tinh thần và đạo đức bởi Phật giáo là một tôn giáo đậm chất men yên ủi, phủ dụ, là nơi bám víu, che chở cho tâm hồn người Việt tha hương xa xứ, di cư trên vùng đất đầy lạ lẫm.

Thứ ba, Phật giáo được chúa Nguyễn sử dụng như là phương tiện để dung nạp các hệ tư tưởng và văn hóa mới, trong đó có việc kế thừa có chọn lọc các yếu tố văn hóa bản địa. Khi vào tiếp quản Thuận Hóa và dần dần chiếm lĩnh cả Đàng Trong, các chúa Nguyễn đã phải đương đầu với một bối cảnh xã hội hoàn toàn mới. Nền văn hóa bản địa vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn minh Ấn Độ của người Chăm, người Khmer và các dân tộc thiểu số có nhiều điểm khác xa với văn hóa Việt, vốn mang nặng ảnh hưởng của nền văn hóa Nho giáo. Chỉ có Phật giáo với tư tưởng phóng khoáng, không gò bó, đòi hỏi rập khuôn máy móc mới có khả năng thâu nhận, dung hòa các luồng tư tưởng khác nhau, lại có ít nhiều điểm tương đồng, gần gũi với văn hóa của cư dân bản địa.

Trên cơ sở đề cao Phật giáo, các chúa Nguyễn đã khéo léo biết kế thừa, tiếp thu những điểm ưu việt hay có lợi trong nền văn hóa bản địa để phục vụ cho sự phát triển của mình. Ngay từ khi mới vào trấn thủ xứ Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng đã rất khôn ngoan tạo ra sự thừa nhận và ủng hộ của các vị thần bản địa đối với ông. Ở Ái Tử, ông được Thần sông báo mộng và bày cách để đánh bại Lập Bạo; đến Huế, ông lại tự coi mình là chân chúa theo lời truyền của bà tiên “quần xanh áo đỏ” hiện hình trên đồi Hà Khê, để từ đó mà khởi dựng chùa Thiên Mụ, củng cố vùng đất, chuẩn bị cho cơ nghiệp lâu dài cho dòng họ. Điều đáng chú ý ở đây là Nguyễn Hoàng đã biết đồng hóa hình ảnh vị thần đất vĩ đại Po Nagar của người Chăm với hình ảnh một bà tiên của Đạo giáo (Thiên Mụ hay Thiên Mẫu) thân thuộc của người Việt cùng lời tuyên bố về vai trò đặc biệt của ông đối với tương lai vùng đất. Đây là một việc làm có ý nghĩa chính trị to lớn, một cách tuyệt vời để “bản địa hóa” và chính danh sự nghiệp của mình. Ngay sau khi được xây dựng, chùa Thiên Mụ đã trở thành biểu tượng của sự linh thiêng, biểu tượng của sự hòa hợp các loại hình tôn giáo tín ngưỡng tại địa phương, và cũng là biểu tượng cho sự ủng hộ của thần linh bản địa đối với họ Nguyễn. Các thủ phủ chúa Nguyễn đều đặt trên những trung tâm cũ của người Chăm nhưng họ vẫn giữ lại những “Thành Lồi”, “Cồn Lồi”, “Miếu Giàng”… Qua một thời gian được Việt hóa, các vị thần linh được thờ ở đó đều trở thành những thần linh bản địa của người Việt, trở thành những thế lực phò giúp chúa Nguyễn về tâm linh.

Như vậy, việc chọn Phật giáo để an dân trong buổi đầu là sách lược khôn ngoan của chúa Nguyễn. Vì thế, về sau dù xây dựng vương triều theo mô hình Nho giáo song chúa Nguyễn vẫn duy trì và phát triển Phật giáo. Vị thế của Phật giáo càng được củng cố, nâng cao hơn dưới thời cai trị của các vị chúa quy y theo Phật như chúa Nguyễn Phúc Chu, chúa Nguyễn Phúc Khoát… Các chúa Nguyễn thực sự là những người sùng mộ đạo Phật, tôn trọng chư tăng, làm chùa, tạo tượng, đúc chuông v.v… Chính vì lẽ đó mà nhiều thiền sư từ Trung Hoa đã đến Đàng Trong hoằng hóa, góp phần tạo sự hưng thịnh cho Phật giáo nơi đây.

2. Những chính sách phát triển Phật giáo ở Đàng Trong của các chúa Nguyễn

2.1. Trùng tu, xây dựng chùa chiền

Sau khi xác định dùng Phật giáo làm nền tảng tư tưởng xã hội của mình, các chúa Nguyễn mà khởi đầu là chúa Tiên đã cho sửa sang, xây dựng hàng loạt chùa chiền. Từ một số nguồn sử liệu, chúng tôi lập ra bảng 2.1.

Bảng 2.1: Các chùa chiền được chúa Nguyễn trùng tu, xây dựng ở Đàng Trong

[Nguồn: Đại Nam thực lục, Tập I;  Đại Nam nhất thống chí, Tập I, II, III ,V;

Đại Nam liệt truyện, Tập I;  Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập II]

STT

Chúa

Năm

Trùng tu

Xây dựng

   1.             

Nguyễn Hoàng

1601

Chùa Thiên Mụ (Thuận Hóa)

 

 

1602

Chùa Sùng Hóa  (Thuận Hóa)

 

 

Chùa Long Hưng (Quảng Nam)

1607

 

Bửu Châu (Quảng Nam)

1609

 

Kính Thiên (Quảng Bình)

   2.             

Nguyễn Phúc Tần

1665

Chùa Thiên Mụ (Thuận Hóa)

 

1667

 

Chùa Vĩnh Hòa (Thuận Hóa)

?

 

Chùa Thiên Tôn (Quảng Trị)

   3.             

Nguyễn Phúc Trăn

1688

Chùa Thuận An (Thuận Hóa)

 

   4.             

Nguyễn Phúc Chu

1692

 

Chùa núi Mỹ An (Thuận Hóa)

1711

 

Chùa Vạn An

1714

Chùa Thiên Mụ

 

?

Chùa Thiền Lâm

 

1716

Chùa Kính Thiên (Thuận Hóa)

 

1721

 

Chùa Giác Hoàng (Thuận Hóa)

   5.             

Nguyễn Phúc Khoát

1738-1744

Chùa Thiên Mụ (Thuận Hóa)

 

Qua bảng thống kê (chưa đầy đủ) ở trên, chúng ta có thể thấy, hầu hết các chúa Nguyễn đều quan tâm đến việc trùng tu và xây dựng chùa tháp ở khắp các tỉnh thuộc Đàng Trong như Quảng Bình, Quảng Trị, Thuận Hóa, Quảng Nam. Đó là chưa kể đến rất nhiều chùa chiền do các vị thiền sư thành lập như:

- Chùa Thập Tháp - Di Đà (Bình Định), chùa Hà Trung, chùa Quốc Ân (Thuận Hóa) do sư Nguyên Thiều lập dưới thời chúa Nguyễn Phúc Tần.

- Chùa Tam Thai (Đà Nẵng) do sư Hưng Liên lập; chùa Chúc Thánh Quảng Nam do sư Pháp Bảo lập dưới thời chúa Nguyễn Phúc Trăn.

- Chùa Ấn Tôn (Thuận Hóa) do sư Tử Dung lập; chùa Thiên Ấn (Quảng Ngãi) do sư Pháp Hóa lập; chùa Thiền Tông (Thuận Hóa) do sư Liễu Quán lập dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu.

- Chùa Giác Lâm (Gia Định) do sư Viên Quang lập; chùa Thiên Trường (chùa Kim Chương) do sư Đạt Bản lập; chùa Linh Sơn (Tây Ninh) do sư Đạo Trung lập dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát.

Ngoài ra, có nhiều ngôi chùa được thành lập dưới thời các chúa Nguyễn trị vì nhưng các nguồn sử liệu không cho biết thời gian cụ thể, chẳng hạn: Chùa Pháp Vân, chùa Thiên Thọ, chùa Từ Tôn ở Thuận Hóa; chùa Hội Tôn, chùa Cổ Lâm, Bảo Tịnh ở Phú Yên; chùa Long Hưng ở Thủ Dầu Một… Giáo sĩ phương Tây Christophoro Boris đã có lời ca ngợi sự phong phú và đẹp đẽ của các ngôi chùa ở Đàng Trong khi ông đặt chân đến vùng đất này vào năm 1621: “Xứ Đàng Trong có rất nhiều chùa đẹp với tháp cao và lầu chuông. Mỗi địa điểm dù nhỏ đến đâu cũng có đền chùa thờ cúng Phật” [1, tr.118].

Trong những công trình do chúa Nguyễn ban hành lệnh sửa chữa, kiến thiết, có một số công trình được đầu tư lớn, tiến hành quy mô trong một thời gian dài. Điển hình là chùa Thiên Mụ ở Thuận Hóa đã được chúa Nguyễn Phúc Chu cho đại trùng tu nhiều lần. Năm 1710, chúa Nguyễn Phúc Chu cho đúc Đại Hồng Chung tại chùa Thiên Mụ. Đồng thời chúa làm một bài minh khắc vào chuông đồng để nói lên tâm nguyện của mình. Đến năm 1714, Quốc chúa lại cho đại trùng tu chùa với hàng chục công trình kiến trúc hết sức quy mô như điện Thiên Vương, điện Đại Hùng, nhà Thuyết Pháp, lầu Tàng Kinh, phòng Tăng, nhà Thiền...  Trong bài Minh ký ghi việc tu tạo chùa Thiên Mụ ở Thuận Hóa của quốc chúa Nguyễn Phúc Chu pháp danh Hưng Long, hiệu Thiên Túng đạo nhân thuộc dòng Đổng Thượng Chánh Tông đời thứ 30 do chúa Nguyễn Phúc Chu viết vào cuối mùa đông năm Ất Mùi niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715) có viết: “nương theo chỗ cũ của chùa Thiên Mụ, muốn dựng một nước Phật mới ở trời Nam. Bèn quyên góp ngọc ngà, chẳng tiếc tiền bạc. Mỗi khi lệnh nước truyền ra thì vật hạng, nhân công chẳng hề sợ hao tốn khó nhọc. Chẳng kể sức dân, chẳng lo ngày tháng. Công trình lớn ấy có sức của các quan cần chánh, chưởng cơ, đại chưởng cơ, giám viên, phó giám … cứ lấy trong quân từ nhiều chọn lấy ít, lại chọn lấy người tài, sử dụng theo sức mà thưởng xứng theo công, cốt lấy lòng thành mà ban ơn úy lạo. Điều thợ thi công chừng một năm, cũng nhờ ơn Sơn môn mà điện Thiên Vương, điện Ngọc Hoàng, điện Đại Hùng, nhà thuyết pháp, lầu kinh, lầu chuông trống hai bên, điện Thập vương, nhà nghỉ, nhà ăn, nhà thiền, điện Đại Bi, điện Dược Sư, nhà tăng, thiền xá kể hàng chục nhà. Sau vườn Tỳ Gia là phương trượng cũng trên chục nhà. Tất cả đều sáng loáng rực rỡ, khiến người xem phải kinh hãi, giật mình, thật là một kim sắc giới, một quang minh tạng vậy” [12].

Qua đó ta thấy lần trùng tu lớn nhất tạo cho chùa Thiên Mụ có một qui mô lớn, ấy là năm Giáp Ngọ (1714) dưới thời Nguyễn Phúc Chu. Ngày nay phần lớn các công trình kể trên đây không còn nữa, nhưng đoạn văn vẫn có thể giúp ta hình dung được quang cảnh rực rỡ nguy nga của Thiên Mụ thời ấy. Để đánh dấu sự kiện quan trọng đó, Chúa làm văn bia, mở đại trai đàn và phát chẩn cho người nghèo suốt cả tháng, mời cả vua Chiêm là Kế Bà Tử cùng hoàng gia Chiêm đến dự.

2.2. Thỉnh mời các cao tăng, pháp khí từ Trung Hoa

Sự phân định ranh giới Đàng Ngoài - Đàng Trong khiến cho việc đi lại giữa hai miền gặp nhiều khó khăn, theo đó gây trở ngại cho việc truyền bá Phật giáo từ Đàng Ngoài vào Đàng Trong. Do vậy, nằm trong ý đồ lấy Phật giáo làm nơi nương tựa tinh thần cho công trình lập quốc của dòng họ, cùng với việc sửa chữa, xây dựng chùa tháp, tạc tượng, đúc chuông, các chúa Nguyễn đã cho thỉnh mời các cao tăng Trung Hoa đến Đàng Trong, trong đó phải kể đến hòa thượng Thạch Liêm, tức Đại Sán hòa thượng - một người được ngợi ca: “học hết ngũ minh chư luận, thông hiểu lý số âm dương, châu du thiên hạ, tiếng tăm đầy rẫy khắp trong ngoài” [9, tr.13].

Dưới thời chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Trăn (1687-1691), chúa đã từng nhờ thiền sư Tạ Nguyên Thiều qua Quảng Đông mời Thạch Liêm hòa thượng sang Đại Việt hoằng pháp song không thành. Thạch Liêm Hòa thượng qua Thuận Hóa không phải là kết quả trực tiếp của chuyến đi của họ Tạ, mà là do nhân duyên của chúa Phúc Chu với sư. Trong bài Tựa do chúa đề tặng trên sách Hải ngoại kỷ sự thì: “… Ta ngày đương ở sừ vị (đương làm thế tử) đã nhiều năm ngưỡng mộ; Tiên vương (tức Nghĩa vương) đưa thư rước mời hai lần không qua. Mùa thu năm Giáp Tuất, ta muốn thụ Bồ tát giới pháp, nối chí Tiên vương sai người qua rước, may được Hòa thượng nhận lời” [9, tr.9-10].

Trong Hải ngoại kỷ sự quyển một, cũng có ghi lại sự kiện này: “… Ngày mùng 4 tháng 8 năm Giáp Tuất, tri khách gõ cửa bảo có sứ nhơn nước Đại Việt đến. Mời vào ra mắt, sứ nhơn người tỉnh Mân (Phúc Kiến), tay nâng phong thư giấy rất kính cẩn lạy dâng lễ vật… thưa rằng “Đại Việt Quốc Vương ngưỡng mộ Lão Hòa thượng đã lâu năm, ngày nay đốt hương xa lạy, dâng phong thư trước tòa Sừ - tử, cúi cầu Đạo - Giá lai lâm; nếu được nhậm lời, là phước lớn cho hạ quốc vậy”… Kể từ Tiền vương (tức Nghĩa vương) có thư mời, đến nay cả thảy ba lần, mời đến ba lần tưởng cũng đã thành tâm lắm vậy” [9, tr.19].

Trước và sau hòa thượng Thạch Liêm còn có nhiều hòa thượng Trung Hoa đã đến Đàng Trong truyền đạo như: thiền sư Viên Cảnh và Viên Khoan, thiền sư Minh Hoằng, thiền sư Giác Phong, thiền sư Từ Lâm, thiền sư Pháp Bảo, thiền sư Hưng Liên, thiền sư Pháp Hóa, thiền sư Tế Viên, thiền sư Nguyên Thiều,... Đây hầu hết là các vị thiền sư hạnh đạo, kiến văn quảng bác, đã có công khai sơn nhiều ngôi chùa lớn, truyền bá rộng rãi Phật pháp ở Đàng Trong. Bên cạnh đó, chúa Nguyễn Phúc Chu cho người sang Trung Hoa thỉnh pháp tượng, pháp khí, mua kinh Phật để hoằng hóa tại Đàng Trong. Sách Đại Nam thực lục chép việc chúa cho trùng tu chùa Thiên Mụ vào năm 1714 có ghi: ”… sai người sang nước Thanh mua kinh Đại tạng cùng luật và luận hơn nghìn bộ để ở tự viện…” [3, tr.130].

Đồng thời, việc các chúa Nguyễn thỉnh mời và cho phép nhiều cao tăng Trung Hoa đến Đàng Trong khai đạo đã tạo điều kiện cho sự du nhập một số tông phái Phật giáo mới như Lâm Tế, Tào Động và đặc biệt là sự hình thành của phái Liễu Quán - một môn phái Phật giáo mang đậm dấu ấn văn hóa Việt.

Người sáng lập ra môn phái Liễu Quán là thiền sư Liễu Quán, quê làng Bạch Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Sư vốn họ Lê, pháp danh Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, tu học từ thuở nhỏ, tỏ ra thông minh khí tiết hơn các bạn đồng học. Mất mẹ năm lên sáu, theo ý nguyện của ngài, thân phụ ngài đã gởi ngài đến chùa Hội Tôn thụ giáo với Tế Viên Hòa thượng. Bảy năm sau Tế Viên Hòa thượng tịch, Ngài ra Huế vào chùa Hàm Long (tức chùa Bảo Quốc ngày nay) thụ học với Giác Phong lão tổ. Sau tiếp tục thụ giới tỳ khưu tại giới đàn do thiền sư Từ Lâm làm Hòa Thượng Đường Đầu, rồi lại lên đường cầu học và đầu sư với Tử Dung Hòa thượng. Một hôm nhân đọc Truyền Đăng Lục gặp câu: “Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ” (Chỉ vật mà truyền tâm, chính vì vậy mà người ta không hiểu), sư hốt nhiên ngộ. Sinh thời, chúa Nguyễn Phúc Khoát rất sùng kính đức hạnh của ông, nhiều lần triệu mời vào phủ nhưng ông một mực từ chối, không muốn lui tới nơi triều đình. Thiền sư Liễu Quán có công rất lớn trong việc phát triển Phật giáo Đàng Trong như thay đổi kiến trúc lễ nhạc mang màu sắc dân tộc, lập ra các đạo tràng để hành đạo, hàng chục tổ đình được tạo dựng bởi các đệ tử của ông… Do vậy, không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Lang (tức Thích Nhất Hạnh) trong Việt Nam Phật giáo sử luận đã đưa ra nhận định: “Thiền sư Liễu Quán đã làm cho thiền phái Lâm Tế trở thành một thiền phái linh động, có gốc rễ ở Ðàng Trong. Trước ông, Phật giáo ở Ðàng Trong mang nặng màu sắc Quảng Ðông. Ông đã Việt hoá thiền phái Lâm Tế, và làm cho thiền phái này trở thành thiền phái của đa số Phật tử Ðàng Trong” [2, tr. 604].

2.3. Coi trọng tăng sư

Coi trọng tăng sư là một trong những chính sách thể hiện sự ưu ái của chúa Nguyễn đối với Phật giáo. Vào năm 1677,  thiền sư Hưng Liên - Quả Hoằng từ Trung Hoa sang Đàng Trong giáo hóa. Sư lập đạo tràng tại chùa Tam Thai (núi Ngũ Hành tỉnh Quảng Nam) và được Quốc chúa - Nguyễn Phúc Chu phong làm Quốc sư. Cũng chính chúa Nguyễn Phúc Chu đích thân viết thư mời thiền sư Trung Hoa là Thạch Liêm sang Đàng Trong và nhân lúc sư Đại Sán còn ở Đại Việt, ông đã quy y học đạo, tôn sư làm thầy, lấypháp danh Hưng Long, hiệu Thiên Túng Đạo Nhân. Thạch Liêm hòa thượng trở thành quốc khách của chúa Phúc Chu.

Không chỉ chúa Nguyễn mà các vị hoàng thân quốc thích cũng rất mộ Phật, tôn trọng sư tăng. Điều này được thể hiện rất rõ qua việc đón tiếp sư Thạch Liêm. Chỉ trong vòng ba ngày, Chúa đã cho “cất xong một tòa phương trượng năm gian, ba mươi hai cột, bốn phía có hành lang; vách tường, rầm thượng, rầm hạ đều bằng ván; và một nhà hậu liêu năm gian, hai mươi cột” [9, tr.43]. Ngay cả Thạch Liêm hòa thượng cũng phải thừa nhận: “Quốc vương cung dưỡng rất trọng hậu, cho đến trăm quan lớn nhỏ, hậu cung quý thích, thảy đều đưa tiền bạc xin yết kiến” [9, tr.55].

Đặc biệt, đối với những vị cao tăng tài cao đức trọng, các chúa Nguyễn còn vời vào triều để tham vấn cho chúa trong công việc chính sự. Ví như chúa Nguyễn Phúc Khoát với thiền sư Liễu Quán, vì kính trọng tài đức của ông mà nhiều lần thỉnh mời vào triều song đều bị từ chối. Vì vậy, chúa thân hành đến chùa Viên Thông ở chân núi Ngự Bình để thăm ông và hỏi đạo. Hay như chúa Nguyễn Phúc Chu với thiền sư Thạch Liêm. Ngoài hoạt động hoằng pháp, thiền sư Thạch Liêm thường được chúa mời vào cung đàm đạo. Thiền sư thường khuyên chúa những điều “thương lính, yêu dân, thông thương lợi quốc, kỷ cương pháp độ”, như thanh lý oan ngục, tha tù bị giam cầm, chẩn cấp kẻ ngèo thiếu, khởi dụng kẻ yêm trệ, bãi bỏ điều cấm nghiêm khắc, thương xót kẻ buôn bán, thi ân cho thợ thầy. Nói tóm lại, nên đem tất cả các việc giúp người lợi vật, châm chước cử hành…” [9, tr.97]. Ngoài việc thực thi những điều trên, theo lời cố vấn của thiền sư, chúa Nguyễn Phúc Chu đã cho bãi bỏ hình phạt tượng hình, nâng đỡ cao tăng ở các tỉnh, ban biển ngạch sắc tứ cùng câu đối cho rất nhiều chùa… Ghi nhớ công ơn của Thạch Liêm hòa thượng, ở bài Tựa trong Hải ngoại kỷ sự, chúa viết: …Từ mùa xuân năm Ất Hợi Hòa thượng qua đến nơi, lưu lại đến mùa hạ năm Bính Tý, được gần gũi hôm sớm, cung dưỡng chuyện trò; sau những lúc giảng luận thiền kinh, còn chỉ vẽ luân thường cương kỷ từ việc lớn đến việc nhỏ, rạch đường chỉ nẻo, lời lẽ rõ ràng; khác nào dắt người từ trong chỗ tối tăm, đem ra nơi thanh thiên bạch nhật; giúp ích cho Quả - nhơn trong việc chính trị nhiều biết chừng nào!” [9, tr.10].

2.4. Chấn chỉnh lại Phật giáo

Vào thế kỷ 17 - 17I, Phật giáo được sùng bái trong dân gian cũng như chốn cung đình, tăng đồ đông nhưng ít kẻ thu hành chân chính. Nguyên nhân do “cha mẹ sợ con phải đi lính, vừa lớn lên tức cho vào chùa làm sãi, hầu mong trốn tránh việc quan, do đó bọn khoác áo nhà chùa rất đông”, và vì vậy dẫn đến sự suy yếu của Phật giáo Đàng Trong “phật pháp trở nên hỗn loạn, chẳng những “tôn phái” không ai hỏi đến, mà các việc “Luật”, “Luận” cũng đều xếp xó bỏ qua; đến đỗi những kẻ mão ni áo tràng mà nết xấu tật hư còn quá bọn dân quê ngoài làng mạc!” [9, tr.43]. Trong bản “Cáo bạch” của Thạch Liêm hòa thượng soạn thảo và chúa Nguyễn Phúc Chu cho dán yết tại các cửa chùa đã phản ánh tình trạng suy đồi của giới tăng lữ Đàng Trong. Pháp y, giới điệp vào thời kỳ này chỉ là chuyện mua bán của giới tăng lữ trục lợi, lối truyền giới cẩu thả đã làm hại đạo pháp một cách nặng nề: “Gần đây có một bọn ma sư truyền giới pháp cho người, dầu người ấy chẳng lên đàn, chẳng hề chịu qua tam sư truyền pháp, thất chứng chứng minh, túc nghiệp chẳng hề sám hối, giới luật chẳng hề giảng bàn, khoác cà sa cầm bình bát, uy nghi chẳng hề diễn tập, không cứ tăng hay tục, chỉ cần có một số tiền hương đăng công đức, tức thì có pháp y giới điệp cấp đến tận tay; khiến bọn vô tri cầu giới ngang nhiên tự cho mình đã đắc đạo truyền đại giới tam đàn. Rốt cuộc,  kẻ truyền giới chẳng biết thọ giới là người nào, kẻ thọ giới chẳng biết thầy nào đã truyền giới…” [9, tr.45] . Thậm chí người được phong là quốc sư ở Đàng Trong - hòa thượng Hưng Liên cũng không giữ được đạo hạnh và địa vị tôn kính cũ, nên trong thư gửi chúa Nguyễn Phúc Chu, sư Thạch Liêm - vốn là thầy của sư Hưng Liên - đã viết những lời phê phán rất nặng nề về phẩm hạnh của vị hòa thượng này: “Chỉ tiếc quốc sư đã thành một vị tỳ kheo bạc đầu, nghĩ rằng chẳng sống còn bao nhiêu ngày, mà gấp lo mưu tính lợi riêng, cam tâm cùng bọn gian hiểm tiểu; suốt sáng thâu đêm dùng hết tâm thuật mưu kế, chỉ mong Quốc Vương chẳng nghe lời ta. Ấy là muốn cho đạo ta chẳng được lưu hành. Tấm lòng đệ tử trả ơn cho thầy, há nên như thế chăng?” [9, tr.213].

Nhằm chấn chỉnh lại Phật giáo, chúa Nguyễn đã cho mời các vị cao tăng ở Trung Hoa sang truyền chánh đạo. Như thiền sư Thạch Liêm, trong suốt hơn một năm ở lại Thuận Hóa, hoạt động chủ yếu của sư là triệu tập tăng chúng toàn quốc, mở ba pháp đàn truyền giáo, qua đó chấn hưng Phật giáo, thanh trừng những phần tử truỵ lạc. Bên cạnh đó, nhận thấy phần đông tăng chúng không giữ giới luật, chúa đã ra lệnh phát lệnh bài đi các phủ, bắt tăng đồ đem về trình Thạch Liêm hòa thượng, khiến cầu chịu ba đàn giới pháp, mới cấp cho giới điệp, miễn tha sưu thuế.

3. Lời kết

Xây dựng sự nghiệp trên vùng đất mới với nhiều chông gai và thử thách, các chúa Nguyễn đã sử dụng Phật giáo để cố kết xã hội, làm chất keo kết dính cộng đồng cư dân, mong xây dựng một xã hội mà mọi người ai cũng được sống an lạc, tràn đầy hạnh phúc. Để thực hiện ý đồ đó, các chúa Nguyễn đã quan tâm đến việc phát triển Phật giáo Đàng Trong bằng cách thực thi nhiều chính sách như: sửa chữa, tạo dựng tự viện, mua kinh Phật, thỉnh mời cao tăng sang truyền đạo, tượng Phật, pháp khí, ban sắc tứ biển ngạch, coi trọng sư tăng, chấn chỉnh lại sự uy nghiêm của Phật giáo, tạo điều kiện cho sự du nhập các tông phái Phật giáo mới... Việc phát triển Phật giáo Đàng Trong, ngoài nguyên nhân do tấm lòng sùng mộ Phật pháp của đa phần các chúa Nguyễn còn xuất phát từ động cơ chính trị. Bởi một khi không thể giương cao ngọn cờ Nho giáo để tránh bị xem là phản nghịch theo quan điểm trung quân truyền thống phong kiến, các chúa Nguyễn đã sử dụng Phật giáo để thu phục nhân tâm, bình ổn xã hội. Và trên vùng đất “tử địa”, với việc lựa chọn Phật giáo trong chiến lược nhân tâm của mình, các chúa Nguyễn đã xây dựng Đàng Trong thành một quốc gia hùng mạnh, giải thích cho “điều đáng kinh ngạc là họ Nguyễn đã thành công trong việc kiến thiết một quốc gia thống nhất trong nhiều thế kỷ tại một lãnh thổ ít kết cấu chặt chẽ nhất thế giới” [10, tr.1]. Nhưng cho dù bắt nguồn từ nguyên nhân gì thì các chính sách nói trên cũng đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho Phật giáo Đàng Trong phát triển nhanh chóng và rộng khắp theo bước chân các thiền sư đến hoằng hóa tại những vùng đất mới ở phía Nam.



* Thạc sĩ, Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Những áng mây trắng - Thơ: Hoang Phong - Diễn ngâm: Hồng Vân
    • Mẹ ơi - Thơ: Thích Phước Hạnh - Nhạc: Hoàng Lan
    • Khúc ca Tịnh Độ - Lời: Thích Phước Hạnh - Nhạc: An Sơn
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 82
    • Số lượt truy cập : 6573288