CHÙA CỔ BỔ ĐÀ Ở BẮC GIANG
HỮU CHÍ
Sách “Bắc Ninh địa dư chí” có ghi: Núi Bổ Đà là ngọn núi bậc nhất của huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Dấu vết vật chất và thư tịch còn lại ở chùa Bổ Đà cho biết Chùa có từ thời nhà Lý thế kỷ 11 và được xây dựng lại vào thời Lê Trung hưng, dưới triều vua Lê Dụ Tông (1705-1728).
Bổ Đà là tên viết tắt của Bổ Đà Lạc Gia, đọc trại từ tiếng Phạn "Potalaka", có nghĩa là ngọn núi nơi Bồ tát Quán Thế Âm hóa hiện để cứu độ chúng sinh.
Chùa Bổ Đà còn được gọi là chùa Bổ, chùa Tam Giáo, có tên chữ là Tứ Ân tự. Chùa tọa lạc trên ngọn núi Phượng Hoàng (Bổ Đà sơn), bờ tả dòng sông Cầu, thuộc địa phận thôn Thượng Lát, xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Chùa nằm cách trung tâm thị trấn Bích Động khoảng 10 km về phía Tây. Chùa Bổ là một trong những ngôi chùa độc đáo nhất vùng, là trung tâm Phật giáo lớn của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Chùa Bổ là một trong những nơi còn giữ nguyên bản nét kiến trúc truyền thống Việt cổ. Chùa có kiến trúc độc đáo và khác biệt so với các ngôi chùa truyền thống ở miền Bắc Việt Nam, vườn tháp đẹp và lớn nhất Việt Nam, nhiều cổ vật có giá trị và kho tàng di sản Hán - Nôm phong phú. Đây cũng là nơi sơn thủy giao hòa, nhìn sông tựa núi, cảnh sắc, không gian nhuốm màu huyền thoại, xung quanh là đồi núi xóm làng bao bọc. Hiện, chùa Bổ Đà còn giữ được nhiều tài liệu, hiện vật, cổ vật quý có giá trị lớn về mặt văn hóa, lịch sử, kiến trúc và mỹ thuật. Đặc biệt là Mộc bản kinh Phật cổ nhất Việt Nam được khắc trên gỗ thị.
Chùa thờ Tam giáo, trong đó có Quán Thế Âm Bồ Tát, Trúc Lâm Tam tổ, Khổng Tử. Quần thể chùa Bổ Đà là một tập hợp di tích gồm: chùa cổ có tên là Bổ Đà. Chùa chính Tứ Ân, Am Tam Đức. Ngoài ra, trên núi Bổ Đà còn có đền thờ Thạch tướng quân có công giúp vua Hùng thứ 16 chống giặc ngoại xâm.
Chùa được xây dựng theo lối kiến trúc "nội thông ngoại bế", tạo vẻ u tịch, thanh vắng, linh thiêng. Với hệ thống bố cục kiến trúc hài hòa được xây dựng bằng các vật liệu: gạch nung, ngói, tiểu sành, tường bao được làm bằng đất rất độc đáo. Điểm đặc biệt ở đây là nhiều bức tường được xây bằng tiểu sành giống như làng Thổ Hà, ở xã Vân Hà, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, nơi chuyên sản xuất chum vại, tiểu sành cách đó vài cây số, tạo vẻ rất trầm mặc, gần gũi với vùng thôn quê ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Toàn bộ chùa chính có diện tích khoảng 5,1 ha, được phân ra làm ba khu rõ rệt: khu vườn: 3 ha, khu nội tự: 1,3 ha, khu vườn tháp: 0,8 ha.
- Khu vườn được trồng các loại cây ăn quả truyền thống và các loại hoa màu theo thời vụ. Xung quanh được đào hào (2 m x 1,5 m) vừa để thoát nước vừa để ngăn cách bảo vệ. Ngoài giá trị vật chất của di tích, từ xưa khu vườn chùa Bổ Đà đã là trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân.
- Khu nội tự: Toàn bộ khu chùa hiện nay gồm 16 toà nhà lớn nhỏ với tổng số 92 gian, bao gồm: nhà bếp, nhà tạo soạn, nhà tổ ly, nhà tổ, nhà tiền tế, nhà in kinh, nhà trai, nhà hành lang hình thước thợ, nhà pháp, nhà khách, nhà ga, toà tam bảo. Toà tam bảo kiến trúc theo kiểu chữ đinh. Phần hậu cung dài 12 m x 7,7 m gồm 5 gian. Toà tiền đường dài 21 m x 11 m có 7 gian, tường gạch, lợp ngói, nền lát gạch vuông, nền nhà cao 0,90 m có 3 bậc. Bậc thềm được lát bằng những phiến đá xanh có kích thước to nhỏ khác nhau. Phía trên là 5 bộ cửa bức bàn. Dấu vết kiến trúc còn lại cho thấy các công trình được xây dựng vào thời Lê - Nguyễn. Từ khi khởi dựng đến nay nó vẫn ở nguyên vị trí ban đầu.
Khu nội tự chùa Bổ Đà
- Khu vườn tháp: Một trong những nét đặc sắc của chùa Bổ mà du khách cũng không thể bỏ qua là khu vườn tháp tăng cổ kính. Khu vườn tháp là một bãi đất nằm nghiêng theo độ cao của núi Bổ Đà, là nơi tàng lưu xá lị, tro cốt nhục thân của các vị hòa thượng dòng thiền Lâm Tế. Nhà chùa đã dùng đá núi, gạch chỉ và đất nén xây dựng một bức thành dài bao quanh vườn tháp, khiến khu vườn luôn ở trong sự thanh tịch sâu lắng. Vườn tháp chùa Bổ Đà là một trong những vườn tháp đẹp và lớn nhất nước, gồm 110 ngôi tháp và mộ lớn nhỏ khác nhau. Trong đó, có 97 ngôi tháp cổ có lịch sử hàng trăm năm, là nơi tàng lưu tro cốt xá lỵ nhục thân của 1.214 tăng ni Phật tử của thiền phái Lâm Tế. Mỗi ngôi tháp an táng từ 4 thi hài đến 26 thi hài; đa số tháp trong vườn là tháp 3 - 4 tầng với độ cao 3 - 5 m, những ngôi tháp sư tổ cao và rộng hơn. Các ngôi tháp mộ xếp hàng hàng, lớp lớp và được xây dựng theo những quy định riêng và rất chặt chẽ của thiền môn. Trong số 3 cuốn gia phả bằng chữ Hán ghi rất rõ ràng: “Chỉ những người trong phái Sơn Môn mới được an táng tại vườn tháp. Tháp của tăng trên đỉnh có hình bình cam lộ đặt trên tòa sen, tháp của ni trên đỉnh có búp sen”.
Khu Vườn tháp chùa Bổ Đà
Hiện nay, chùa Bổ Đà là nơi bảo lưu hơn 40 pho tượng Phật quý. Trong đó phần lớn là tượng Phật cổ thời Lê (thế kỷ XVIII) và thời Nguyễn (thế kỷ XIX). Không những vậy còn có những pho tượng bài trí theo tín ngưỡng thờ Nho giáo, Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian bản địa. Tượng Phật chùa Bổ Đà không chỉ có giá trị lịch sử về sự phát triển của đạo Phật, của Thiền phái Trúc Lâm, mà còn là những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc phong phú. Trong đó có tòa Cửu Long. Ở đây còn cây đèn thời Lê bằng gỗ. Mỗi cây cao 0,60 m; 1 choé cao 0,60 m; 1 lọ độc bình, 1 quả chuông đồng cao 1 m, đường kính 0,60 m có niên hiệu Tự Đức. Hai án thư ở nhà tam bảo sơn son thếp vàng, chạm khắc tinh xảo. Các bức đại tự, hoành phi, câu đối được sơn son thếp vàng lộng lẫy. Chùa còn 1 chiếc mõ cá dài 0,60 m.
Hệ thống tượng Phật ở chùa Bổ Đà được bài trí theo dòng phái Lâm Tế có sự kết hợp với tín ngưỡng dân gian bản địa và Đạo giáo. Phật giáo vào vùng đất Bắc Giang là Phật giáo Thiền tông nhưng không thuần túy, nó có sự kết hợp các yếu tố của Tịnh độ tông, Mật tông. Mặt khác, trong khi du nhập vào Bắc Giang, đạo Phật đã tiếp thu và kết hợp với các yếu tố văn hóa dân gian, Đạo giáo. Chùa Bổ Đà là nơi kết hợp đủ các yếu tố văn hóa này. Chùa có ban thờ Đức Thánh Hóa, ở tiền đường bên trái có tượng của ngài gắn liền với thần tích về Thạch tướng quân, có ban thờ đặt tượng Khổng Tử và Thái Thượng Lão quân. Ở nhà tổ lại có ban thờ tượng Tổ của Thiền phái Trúc Lâm, trên có bài trí tượng Tổ Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang. Trong ký ức dân gian, nhân vật Thạch tướng quân được tôn thờ ở các khía cạnh khác nhau: Thứ nhất là vị tướng có tài năng và sức mạnh đặc biệt; thứ hai là vị tướng lập chiến công kỳ vĩ giúp nhà vua đánh thắng giặc Man; thứ ba là vị thần bảo hộ cho dân làng Tiên Lát.
Mộc bản kinh Phật Thiền phái Lâm Tế
Chùa Bổ Đà hiện nay còn lưu giữ được nhiều tài liệu quý hiếm có ý nghĩa cho việc nghiên cứu khoa học. Ở đây còn lưu giữ một kho tàng di sản Hán Nôm phong phú về số lượng, đa dạng về loại hình, ngoài những tấm bia đá, chuông đồng còn có hàng trăm cuốn kinh sách, luật giới nhà Phật. Đặc biệt, trong chùa còn lưu giữ bộ ván kinh Phật là một trong những bộ Kinh khắc gỗ cổ nhất Việt Nam được khắc vào khoảng năm 1741 khi các vị tổ sư xây dựng chùa.
“Bộ Kinh này được khắc không lâu so với bộ kinh Pháp Hoa tại chùa Phật Quang (đường Trần Quang Khải, phường Hưng Long, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận) được khắc trong 28 năm (từ năm 1706 đến năm 1734), đã được đưa vào sách kỷ lục Việt Nam ngày 2 tháng 1 năm 2006. Cả hai bộ Kinh được cho là cổ nhất Việt Nam này có điểm chung là đều khắc trên gỗ thị”.
Mộc bản Kinh Phật khắc trên gỗ thị ở chùa Bổ Đà với gần 2.000 bản khắc
bằng chữ Hán, chữ Nôm, chữ Phạn.
Bộ kinh tại chùa Bổ Đà được hình thành xuất phát từ ý tưởng của các vị tổ sư, đồng thời cũng là những người xây dựng ra ngôi chùa muốn có một bộ kinh để truyền dạy đạo Phật, đó là những di vật Phật học đặc biệt quý giá để lại cho đời sau. Bộ kinh mang những tư tưởng của hai dòng Phật giáo lớn nhất châu Á xưa là Ấn Độ và Trung Hoa. Trong đó, có hơn 2.000 mộc bản của các bộ kinh như: Lăng nghiêm chính mạch, Yết ma hội bản, Nam hải ký quy... Bộ kinh được xếp trên 8 giá, mỗi giá có 4 tập sách kinh gồm 240 tấm ván gỗ hợp thành, tất cả có khoảng gần 2.000 tấm. Mỗi tấm gỗ dùng để khắc kinh dài trung bình 50 cm, rộng 25 cm và dày khoảng 2,5 cm. Nếu muốn xem đồng loạt toàn bộ kho kinh cổ ở đây thì phải có khoảng đất rộng 250 - 300 m2 để rải các tấm ván kinh ra. Bộ kinh được khắc trên gỗ thị, một loại cây gỗ mọc phổ biến ở vùng rừng núi này. Gỗ thị không những bền mà còn rất nhẹ, đây cũng là một đặc điểm thuận lợi để khắc cũng như vận chuyển kinh.
Trải qua gần 300 năm, bộ kinh hiện nay vẫn còn khá nguyên vẹn. Đặc biệt là những tấm gỗ thị dùng để khắc kinh đều rất bền, đẹp, không bị mối mọt, dù không dùng một loại thuốc bảo quản nào. Kinh được khắc nổi bằng chữ Hán, nét chữ tinh xảo, đến nay vẫn còn rất sắc, rõ nét. Đặc biệt, bộ kinh gỗ này có nói đến những đặc trưng của Phật giáo Trung Hoa khi được truyền vào Việt Nam với 3 tông phái (Thiền tông, Tịnh độ tông và Mật tông). Trọng tâm của bộ kinh nói đến nỗi khổ của con người và sự giải thoát. Trong đó tiêu biểu nhất là Tứ Diệu Đế - 4 chân lý kỳ diệu của đạo Phật - gồm: Khổ Đế, Nhân Đế, Diệt Đế và Đạo Đế. Bộ kinh còn nói đến cõi Niết bàn, những vòng luân hồi chuyển kiếp của một đời người, giải thích thế nào là sự tu nhân tích đức, cõi vô vi... Bộ kinh cũng thể hiện những tư tưởng của Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là sự ảnh hưởng của dòng Phật giáo Thiền phái Trúc Lâm.
Con đường ngoằn ngoèo qua những xóm làng nằm giữa những ruộng lúa dẫn tới chân một quả đồi phủ đầy cây xanh. Ngôi chùa có lối kiến trúc nội thông ngoại bế, với gần 100 gian liên hoàn, mang một vẻ u tịch, thanh vắng hiếm thấy, kể cả so với những ngôi chùa cổ khác ở miền Bắc. Ấn tượng mạnh đầu tiên cho du khách là bức tường cổ từ thế kỷ 11 bao quanh chùa, bên ngoài là rặng tre xanh bao vòng quanh như hàng rào bảo vệ. Con đường nhỏ dẫn vào cổng chùa như bước ra từ một chuyện cổ tích, ở hai bờ tường đất phủ đầy rêu. Tường ở đây được làm bằng đất nện theo lối trình tường, cao hơn 1,5 m, dày chừng 0,5 m. Đất sét được trộn với rơm rạ, sỏi đá, cho vào khuôn gỗ dày giã nhuyễn tới khi khô thì dỡ khuôn, Từng lớp cao khoảng 40 cm được chồng lên nhau theo cùng một cách làm như vậy, cho đến khi chúng kết thành một khối tường cao vững chắc. Bước qua nhiều cánh cổng gỗ có mái ngói rêu phong mang dấu ấn thời Lê là vào nội tự chùa. Du khách sẽ ngỡ ngàng khi thấy một sắp đặt những bình gốm đủ loại bên một bức tường khác bằng gạch nung, ngói và tiểu sành vô cùng độc đáo. Gần đó là hai giếng nước có mái, phủ đầy rêu được cho là có cùng niên đại của thời lập chùa. Ngoài ra, không thể không nói đến kiến trúc cảnh quan trong nội tự và vườn chùa, những lựa chọn và sắp đặt vô cùng tinh tế của cây, hoa, đá và nước, khiến Phật tử và du khách thực sự tìm thấy sự an nhiên tự tại trong không gian linh thiêng mà thanh tao, đậm chất thiền của nơi cửa Phật. Cổng vào chùa, nền lát đá muối có kích thước to nhỏ khác nhau, xây theo kiến trúc thời Nguyễn mang dáng dấp gác chuông.
Tường đất - Nét độc đáo riêng chùa Bổ Đà
Nhà Tổ ly nằm sau nhà Tạo soạn, tường gạch ngói nền lát gạch vuông gồm 7 gian. Nhà Tiền tế gồm 5 gian, nhà khung bằng gỗ kiến trúc kiểu chồng giường, tường gạch lợp ngói. Nhà in Kinh làm theo kiểu chồng diêm 2 tầng, mái cao 8m. Nhà Trai gồm 3 gian tường gạch lợp ngói. Chùa Bổ Đà có dãy hành lang dài 7m nối từ nhà Trai đến nhà Pháp rộng 2,5m. Nhà Pháp dài rộng, gồm 7 gian tường gạch lợp ngói, nền lát gạch vuông. Tiếp đến là bể nước được xây sát tường hậu tòa Tam Bảo.
Tòa Tam Bảo kiến trúc theo kiểu chữ Đinh, phần hậu dài rộng, gồm 5 gian. Nền nhà cao 3 bậc, bậc thềm được lát bằng những phiến đá xanh có kích thước to nhỏ khác nhau. Phía trên là 5 bộ cửa bức bàn. Bên cạnh tòa Tam Bảo còn 1 dãy hành lang dài rộng, gồm 6 gian.
Nhà Khách là nơi hòa thượng ở, gồm 7 gian, 2 gian đầu là lối lên gác kiến, nhà chồng diêm hai tầng mái. Nhà tiếp khách gồm 6 gian, tường gạch lợp ngói, khung nhà bằng tre ngâm.
Trụ trì hiện nay của nhà chùa là Đại đức Thích Tục Vinh (thế danh: Trương Lý Vinh), Ủy viên Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bắc Giang nhiệm kỳ V (2017-2022).
CHÙA BỔ ĐÀ hàng năm tổ chức long trọng Lễ hội giỗ tổ khai sơn từ ngày 16 đến 18 tháng 2 âm lịch. Ngoài đợt hội chính vào đầu năm, hội Bổ Đà còn diễn ra vào dịp 12 tháng Chín, ngày hóa của Thạch linh thần tướng. Nơi thờ nằm ở trên đỉnh núi Phượng Hoàng (đỉnh cao nhất trong dãy Bổ Đà sơn). Lễ hội Bổ Đà, một trong 11 Di sản Văn hóa cấp quốc gia đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận vào ngày 23 tháng 1 năm 2017 theo Quyết định số 217/QĐ-BVHTTDL.
Năm 1992, chùa Bổ Đà được Bộ Văn hóa-Thông tin xếp hạng Di tích cấp quốc gia. Năm 2016, chùa Bổ Đà được công nhận Di tích quốc gia đặc biệt.
Ngày 7 tháng 5 năm 2016, Tổ chức Kỷ lục Việt Nam đã xác nhận kỷ lục Bộ Mộc bản Kinh Phật tại chùa Bổ Đà của Thiền phái Lâm Tế khắc trên gỗ thị cổ nhất Việt Nam.
Ngày 30 tháng 4 năm 2017, tại thành phố San Diego, Hoa Kỳ; Liên minh Kỷ lục thế giới (Worldkings) đã xác nhận kỷ lục Bộ Mộc bản kinh Phật của Chùa Bổ Đà là Bộ Mộc bản kinh Phật khắc trên gỗ thị của Thiền phái Lâm Tế cổ nhất thế giới.
Ngày 25 tháng 12 năm 2017, Mộc bản chùa Bổ đã được công nhận là Bảo vật Quốc gia theo Quyết định số 2089/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Bình luận bài viết