CHÚA NGUYỄN PHÚC CHU VỚI VĂN HỌC
NGUYÊN HUỆ*
Đến nay, các nhà viết lịch sử văn học Việt Nam hầu như chưa chú ý tới sự nghiệp sáng tác của Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu, nhưng những người nghiên cứu về văn học Thiền, văn học Phật giáo Việt Nam thì không thể không nhắc tới tên tuổi ông. Dựa theo nội dung nơi một số bài thơ chữ Hán của chúa Nguyễn Phúc Chu mà chúng tôi bước đầu tập hợp được, xin tạm chia ra các mảng như sau:
1. Thơ vịnh cảnh, giao tiếp:
a. Thơ viết về đèo Hải Vân:
“Việt Nam hiểm ải thử vân điên
Hình thế hỗn như Thục đạo thiên
Đãn kiến vân hoành tam tuấn lãnh
Bất tri nhân tại kỷ trùng thiên”.
(Hải Vân Sơn)
(Núi này quan ải nước Nam
Khác nào đường Thục sàm nham gập ghềnh
Mây che ba ngọn núi quanh
Biết đâu người ở trời xanh mấy tầng).
(Núi Hải Vân, Thái Văn Kiểm dịch.- Dẫn theo Phạm Việt Tuyền, Văn học Miền Nam, NXB Khai Trí, S, 1965, tr. 34)
Núi - đèo Hải Vân là vùng núi đèo lớn trên con đường thiên lý Bắc - Nam, cảnh quan ở đây đẹp một cách hùng vĩ: đường đèo quanh co, núi cao chót vót, biển xanh mênh mông với sóng lô nhô lớp lớp, cây cối thì um tùm hầu như là trùng trùng điệp điệp. Bài thơ thất ngôn tứ tuyệt của tác giả Nguyễn Phúc Chu mới chỉ là một nét chấm phá khiêm tốn, nhưng dù sao thì cũng là một thể hiện đáng trân trọng. Nơi bài thơ chữ Hán “Ức gia huynh” (Nhớ anh), thi hào Nguyễn Du (1765-1820) cũng đã nhắc tới đèo Hải Vân:
“Lục tháp thành nam hệ nhất quan
Hải Vân dạ độ thạch toàn ngoan
Cùng xu lam chướng tam niên thú
Cố quốc yên hoa nhị nguyệt hàn…”.
(Quan nơi Sáu Tháp buộc ràng thân
Đá gập ghềnh đêm vượt Hải Vân
Sương gió đồn xa hiu hắt phận
Khói hoa quê cũ lạnh lùng xuân…).
(Quách Tấn dịch. Tố Như Thi, NXB An Tiêm, S, 1973, tr. 58-60)
Anh của Nguyễn Du được nhắc tới là Nguyễn Nễ còn gọi là Nguyễn Đề (1761-1805) là anh cùng cha cùng mẹ với nhà thơ, ra hợp tác với nhà Tây Sơn, bấy giờ đang trấn nhậm nơi thành Quy Nhơn (Bình Định) mà theo tác giả Nguyễn Du, vì không mấy cảm tình với triều đại ấy nên đã nghĩ đó là vùng đất quá xa xôi, hẻo lánh. Và trên quãng đường diệu vợi từ quê hương Hà Tĩnh vào Quy Nhơn, đèo Hải Vân được xem là một điểm khó khăn cần vượt qua nổi bật hơn hết. Theo nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn, căn cứ theo các đồ gốm xứ do ông sưu tầm được thì bài thơ Hải Vân Sơn của chúa Nguyễn Phúc Chu gồm 8 câu, có tên là Ải Lĩnh Xuân Vân:
Việt Nam xung yếu thử sơn điên
Tuyệt lĩnh hoàn như Thục đạo thiên
Đãn kiến vân hoành tam tuấn lĩnh
Bất tri nhân tại kỷ trùng thiên.
Lãnh triêm tu phát phi đồng tuyết
Thấp tiễn y thường khởi thị tuyền
Duy nguyện hải phong xuy tác vũ
Chính nghi thiên lý nhuận tang điền.
Dịch:
Mây Xuân Đỉnh Ải
Việt Nam hiểm trở có non này
Thục đạo nghìn trùng chót vót thay
Chỉ thấy mây che ba đỉnh lớn
Nào hay người ở mấy từng đây?
Không khe suối, cũng dầm xiêm áo
Chẳng tuyết băng sao buốt tóc mày
Gió biển nguyện xin thành mưa móc
Ruộng dâu ngàn dặm tốt tươi bày.
Trần Đình Sơn dịch (Tản Mạn Phú Xuân, NXB Trẻ, 2001, tr 46-47).
b. Thơ viết về cảnh Thiền: Cũng theo Trần Đình Sơn, căn cứ theo các đồ gốm sứ… chúa Nguyễn Phúc Chu còn là tác giả hai bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú viết về cảnh Thiền: Bài Thiên Mụ hiểu chung (Chuông sớm Thiên Mụ) và bài Tam Thai Thính Triều (Ở núi Tam Thai nghe sóng).
* Thiên Mụ Hiểu Chung:
Ký bạch đông phương túy tích trùng
Thự quynh tiệm dữ bách hoa nùng
Tà khan vân ảnh giang can nguyệt
Bất thính triều thanh sơn tự chung.
Độc ngã nhàn tình y phiếu miễu
Kỷ nhân trần mộng đắc thung dung
Du du dư vận chư thiên lý
Phạn ngữ dao ưng đáp hiểu chung.
* Chuông sớm Thiên Mụ:
Biêng biếc phương trời buổi rạng đông
Trăm hoa ửng nắng sắc hương nồng
Vẳng nghe sóng dậy chuông chùa điểm
Ghé mắt, mây phô nguyệt bến lồng.
Riêng tớ, tình suông về thăm thẳm
Mấy ai, cảnh mộng tới thong dong
Mang mang dư vận từng không tỏa
Kinh Phạn hồi chuông sớm quyện lòng.
Trần Đình Sơn dịch (sđd, tr. 39).
* Tam Thai thính triều:
Kỳ tú Tam Thai tủng bích phong
Trung hư ngoại hữu bạch vân phong
Tự lai Việt hải vân xuân lãng
Như tại Phiên dương thính thạch chung
Bất đoạn phong thanh bôn bạch mã
Hoàn nghi vũ sắc khởi thương long
Dục tầm thanh mộng hà tằng khán
Hưởng triệt nham tiền kỷ thụ tùng.
* Ở núi Tam Thai nghe sóng:
Tam Thai chất ngất đỉnh non xanh
Động vắng mênh mông mây phủ quanh
Dào dạt sóng xuân trào Việt hải
Ngân vang chuông đá vọng Phiên thành
Gió reo ngựa trắng liên hồi trẩy
Mưa cuốn rồng xanh thấp thoáng đoanh
Mộng đẹp mong tìm sao chưa thấy
Rì rào vách núi cụm tùng xinh.
Trần Đình Sơn dịch (sđd, tr. 53).
Cảnh Thiền nổi bật cùng tạo sự kết hợp ở đây là tiếng chuông chùa. Cái âm thanh vô cùng quen thuộc và tuyệt vời ấy vẫn luôn tạo được sự nối kết hài hòa giữa cảnh và tâm, giữa sắc và không, giữa hư và thực, giữa trần tục và xuất thế.
c. Thơ tặng Trần Đình Ân:
“Bình sinh trì thiện tính tinh thuần
Tán phụ ngô triều tứ thế nhân
Chính nghiệp dĩ thành từ tử thụ
Đạo tâm thường hiện khước hồng trần
Hy hy hạc phát đồng Thương Hạo
Nghiễm nghiễm tiên phong diệc Hán thần
Thử khứ Quảng Bình hà sở sự
Thanh sơn lục thủy lạc thiên chân”.
(Ưa thiện bình sinh giữ tính thành
Bốn triều rõ mặt bậc tôi lành
Công to đã vẹn xa đài gác
Lòng đạo thường lo chán lợi danh
Tóc bạc phơ phơ màu ẩn sĩ
Dáng nhàn thong thả vẻ công khanh
Quảng Bình đất ấy còn chi bận?
Nước biếc non xanh mặc thỏa tình).
(Cao Tự Thanh dịch, Đại Nam liệt truyện tiền biên, NXB KHXH, 1995, tr. 219).
Trần Đình Ân (1626 – 1706) người huyện Minh Linh, Quảng Trị (huyện này trước kia thuộc Quảng Bình), là một bậc công thần nổi tiếng của chúa Nguyễn, làm quan trải bốn đời chúa: Nguyễn Phúc Lan (1601-1648), Nguyễn Phúc Tần (1620-1687), Nguyễn Phúc Thái (1650-1691), Nguyễn Phúc Chu (1675-1725), có tài, trung thành, thuần hậu, rất mộ Phật, năm 78 tuổi xin về hưu được chúa ban cho nhiều đặc ân và thơ tặng thể hiện lòng ưu ái của chúa đối với một lão thần đáng kính.
Lời thơ trang trọng hàm chứa những đánh giá khá chính xác về đối tượng, góp thêm tư liệu về mối tương quan tốt đẹp giữa chúa sáng - tôi hiền, vẫn là mong ước ngàn đời giữa bậc lãnh đạo và hàng ngũ cộng sự.
2. Mảng thơ tình cảm: Ở đây, chúng ta nhận thấy chúa Nguyễn Phúc Chu là một con người đa cảm. Bốn bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú thương tiếc người cung phi yêu dấu họ Nguyễn, con gái quan Tham chính Nguyễn Hữu Hợp đã thể hiện rõ:
* Bài 1:
“Vấn thiên hà sự chiết ngô phi
Hoa tạ tam cung nguyệt yến huy
Bất đặc nữ trung vong khốn phạm
Hoàn tri kỳ nội thất dung nghi
Thời đương thất tịch Ngân hà ám
Sầu ký thiên niên giới lộ hy
Man đạo tiếu nhân nhi phụ thái
Cổ kim thùy cánh thử tình vi”.
(Hỏi trời sao giết ái phi ta
Hoa rụng ba cung ánh nguyệt nhòa
Trâm xuyến đã vùi khuôn nữ tắc
Dung nghi lại mất dáng Hằng Nga
Cầu ô gãy nhịp sông Ngân tối
Cõi thế đau lòng móc hệ sa
Chớ nhạo tình người sao yếu đuối
Xưa nay chồng vợ xót nhau mà).
* Bài 2:
“Khứ niên Chúc nữ nhập song minh
Khước bị trùng vân tựu địa sinh
Chế cấm vị hoàn ty tại trục
Xuyên châm tài bãi tuyến phiêu doanh
Không hoài ngũ dạ quỳnh lâu địch
Khởi vọng song xuy ngọc điện sinh
Nhất phiến mê ly nghi thử tế
Uyên ương tú chẩm mộng nan thành”.
(Năm xưa Chúc nữ rạng bên song
Đất chợt tuôn mây tối mịt mùng
Dệt gấm chưa xong tơ cuốn dở
Xâu kim vừa dứt chỉ bay tung
Năm canh luống nhớ khi canh tận
Đôi bóng còn mơ lúc bóng chung
Mê mẩn chợt ngờ đang tối mặt
Uyên ương gối lẻ mộng không xong).
* Bài 3:
“Nội trợ tằng kinh ức ỷ ni
Duy dư đồng nhữ lưỡng nan kỳ
Phi nhân mộ sắc tiềm huy lệ
Chỉ vị tôn hiền trọng phú thi.
Việt hải tuy khoan nan tải hận
Tẩm lăng nghi cận dị quan bi
Trường đê thả mạc tài dương liễu
Hảo đãi thanh minh túng mục thì”.
(Nội trợ dung nghi cứ nhớ hình
Đôi ta thôi hết cuộc kim sinh
Lệ rơi nào chỉ thương nhan sắc
Thơ viếng còn do tiếc tính tình.
Bể rộng cũng khôn đong tủi hận
Mộ tân cho tiện viếng hư linh
Trên đê nhớ chớ trồng dương liễu
Để đến Thanh minh dễ thấy mình).
* Bài 4:
“Nhữ thọ tuy vi phúc tự trường
Nhân truyền phúc trạch Nguyễn cung hương
Phao tư kim ngọc doanh song níp
Lưu thử nhi tôn mãn nhất đường.
Đối cảnh kỷ hồi hàm biệt lệ
Lân tài nhất thế động trung trường
Kim bằng diệu pháp Không vương lực
Tiến bạt u hồn đạt thượng phương”.
(Tuổi thọ không cao phúc vẫn đầy
Đời truyền phúc trạch Nguyễn phi dày
Ngọc vàng dẫu bỏ hai rương đó
Con cháu còn lưu một lũ đây.
Mấy lúc lệ rơi vì thấy cảnh
Suốt đời ruột đứt bởi thương tài
Nay nhờ diệu pháp Như Lai giúp
Nâng đỡ hồn thơm tới cõi Tây).
(Cao Tự Thanh dịch, Đại Nam liệt truyện tiền biên, sđd, tr. 75-78)
Lời thơ chân tình, tha thiết, hai câu kết nơi bài thứ tư tạo được ấn tượng đậm cho người đọc, nhất là những người đọc theo Phật.
3. Mảng thơ liên quan đến cửa Thiền: Ngoài hai bài thơ Chuông sớm Thiên Mụ và Ở núi Tam Thai nghe sóng đã dẫn ở trước, chúa Nguyễn Phúc Chu còn có bài Minh nơi Văn bia chùa Thiên Mụ khắc dựng năm 1715 và bài Minh truy tán Thiền sư Nguyên Thiều, người khai sơn Tổ đình Thập Tháp (Bình Định) và Tổ đình Quốc Ân (Thuận Hóa), cũng là người có công trong nỗ lực đem Phật giáo truyền bá vào Nam Hà hậu bán thế kỷ 17. Ở đây, tác giả đã kết hợp khá thành công giữa khả năng thi ca và trình độ Phật học cùng với tâm mến mộ Phật giáo của mình.
* Bài Minh truy tán Thiền sư Nguyên Thiều:
“Ưu ưu Bát nhã
Đường đường Phạm thất
Thủy nguyệt ưu du
Giới trì chiến lật.
Trạm tịch cô kiên
Trác lập khả tất
Thị thân bản không
Hoằng pháp lợi vật.
Biến phú từ vân
Phổ chiếu tuệ nhật
Chiêm chi chiêm chi
Thái sơn ngật ngật”.
(Cao vút trí tuệ
Phạm hạnh vun trồng
Giới đao một lưỡi
Trăng nước thung dung.
Ngồi đứng một thân
Trong lặng kiên cường
Hoằng pháp lợi người
Quán thân vốn không.
Mây từ che khắp
Trời tuệ chiếu cùng
Ngắm đi ngắm đi
Thái sơn oai hùng).
(Dẫn theo Việt Nam Phật giáo sử luận, T.2, NXB Văn học, 1992, tr. 190-191).
Không chỉ là một bài Minh, những lời truy tán ấy đã mang đủ vóc dáng của một bài thơ Thiền có giá trị.
* Bài Minh nơi Văn bia chùa Thiên Mụ:
“Việt chi Nam hề trú thủy trú sơn
Bảo sát chi tráng hề, nhật chiếu thiền quan
Tính chi thanh tịnh hề, khê hướng sằn sằn
Quốc chi điện an hề, tứ cảnh u nhàn
Vô vi chi hóa hề, Nho - Thích đồng ban
Ký tư thắng khái hề, nhân quả hồi hoàn
Kiến tiêu lập đích hề, thành tồn tà nhàn”.
(Đất Việt phương Nam chừ, có nước có non
Bảo sát tráng lệ chừ, mặt trời chiếu rạng
Tự tính thanh tịnh chừ, suối tuôn một ngọn
Quốc gia an ổn chừ, bốn cõi thanh nhàn
Đạo đức giáo hóa chừ, Nho - Thích cùng ban
Ghi cảnh đẹp này chừ, nhân quả tuần hoàn
Dựng bia lưu dấu chừ, chính giữ tà tan).
(Việt Nam Phật giáo sử luận, T.2, sđd, tr241)
Bài Minh góp phần khẳng định vai trò đáng kể của Phật giáo trong việc đem lại sự ổn định, thịnh trị cho đất nước thời bấy giờ, điều mà Phật giáo thời thịnh Lý thịnh Trần đã làm được.
Tóm lại, sự nghiệp văn học của chúa Nguyễn Phúc Chu chưa có gì là bề thế, nhưng vẫn là những đóng góp cần được ghi nhận. Năm 1998, TPHCM kỷ niệm tròn 300 năm tuổi, một số tài liệu vẫn ghi: “Năm 1698, chúa sai ông Nguyễn Hữu Cảnh vào chia đất Đông Phố…”, nhưng lại quên rằng chúa ở đây chính là Nguyễn Phúc Chu (trị vì từ năm 1691 đến 1725), vậy ông đúng là người đứng đầu trong việc khai sinh ra vùng đất này, và Phật giáo Nam Hà thời ấy khá phát triển, chắc chắn đã có mặt rất sớm, rất tích cực trong suốt chặng đường dài, kể cả giai đoạn cuối nơi cuộc Nam tiến của dân tộc ta. Do vậy, không có gì phải ngạc nhiên khi chúng ta biết rằng đạo Phật có một thời rất hưng thịnh ở đất Sài Gòn như chính Trương Vĩnh Ký đã ghi nhận: “Từ cầu thứ ba tức cầu Xóm Kiệu (Tân Định) lên tới chợ Xã Tài, xưa kia là một ngôi làng lớn (Phú Nhuận), người ta đếm được 72 cảnh chùa chiền” (Nguyễn Đình Đầu dịch, Ký ức lịch sử về Sài Gòn, NXB Trẻ, 1997, tr. 28).
Nói chung, sự nghiệp văn học cùng những đóng góp cho Phật giáo và ảnh hưởng từ sự đóng góp ấy của chúa Nguyễn Phúc Chu cần được sự quan tâm hơn nữa của các nhà nghiên cứu về Lịch sử Phật giáo, về Văn học Phật giáo Việt Nam.
Thành phố Hồ Chí Minh ngày 15 tháng 03 năm 2011.
Bình luận bài viết