Thông tin

CHÙA VÂN LỖI VÀ DI SẢN VĂN BIA ĐỘC ĐÁO

 

TS. ĐINH VĂN VIỄN
Trường Đại học Hoa Lư

 

 Theo một số tài liệu ghi chép, chùa Vân Lỗi (xưa kia có tên Sùng Nghiêm Linh Tự)
được dựng khoảng thế kỷ XIV. Đây cũng là ngôi chùa lớn đầu tiên được ghi chép trong sử sách,
trước kia quanh chùa có không dưới 10 tấm bia đá lớn nhỏ, nhưng giờ chỉ còn 5 tấm.

 

1. Chùa Vân Lỗi

Chùa Vân Lỗi tọa lạc trên sườn núi Vân Lỗi (còn gọi là núi Vân Nham), cao khoảng 20m so với mặt đất, thuộc làng Vân Hoàn - nay là địa bàn xã Nga Thắng, tỉnh Thanh Hóa. Làng Vân Hoàn xưa từng thuộc xã Vân Suối, sau đổi tên thành xã Sơn Đầu, thuộc tổng Thạch Truyền, huyện Nga Sơn. Giai đoạn 1945–1947, xã Sơn Đầu đổi tên thành Phượng Đầu, đến năm 1948 mang tên xã Nga Lĩnh. Nga Lĩnh bao gồm các làng: Vân Hoàn, Đồng Đội, Giải Uấn (tên cũ An Lạc), Hội Kê (tên cũ Hội Kế), và Báo Văn (tên cũ Báo Biến). Năm 2019, xã Nga Lĩnh được sáp nhập với xã Nga Nhân, hình thành xã Nga Phượng. Đến ngày 1 tháng 7 năm 2025, theo chủ trương sắp xếp đơn vị hành chính, xã Nga Phượng đã được sáp nhập vào xã Nga Thắng.

Không gian địa lý nơi núi, chùa Vân Lỗi tọa lạc có đặc điểm đa dạng, với sự đan xen giữa đồi núi, đồng bằng và hệ thống sông ngòi. Đáng chú ý là dòng sông Lèn – chi lưu của sông Mã, nước chảy trắng xóa, bãi phù sa và cánh đồng rộng xa xa như nối với khoảng trời đất bát ngát – đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành điều kiện địa văn hóa đặc sắc cho vùng đất này.

Vùng đất nơi núi, chùa Vân Lỗi tọa lạc có đặc điểm đa dạng, với sự đan xen giữa đồi núi, đồng bằng và hệ thống sông ngòi. Dòng sông Lèn - phân lưu của sông Mã - chảy qua vùng này, không chỉ tạo nên vẻ đẹp nên thơ với bãi phù sa trù phú, cánh đồng mênh mông mà còn giữ vai trò lịch sử - văn hóa sâu sắc. Sông gắn với nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước, của địa phương. Nơi đây, từng ghi dấu trận đánh lớn giữa quân Trần và quân Nguyên do Trần Quang Khải chỉ huy. Không gian địa lý nơi đây, vừa hùng vĩ vừa linh thiêng, đã trở thành nền tảng hình thành di sản văn hóa quý báu gắn với chùa Vân Lỗi.

Chùa Vân Lỗi có chữ là Sùng Nghiêm Linh tự, mang ý nghĩa ngôi chùa tôn kính Phật pháp, giữ gìn sự trang nghiêm thanh tịnh, và là nơi linh thiêng giúp con người giác ngộ. Tên chùa là Vân Hoàn cũng phổ biến trong cộng đồng địa phương, gắn liền với tên làng nơi chùa tọa lạc.

Các tư liệu khắc trên đá - gồm bia ký từ thời Trần đến Lê Trung Hưng, cùng nhiều bài thơ, văn khắc trên vách đá - là những chứng tích xác thực về sự tồn tại lâu đời của ngôi chùa này, đồng thời phản ánh vị trí văn hóa - tín ngưỡng quan trọng của chùa trong lịch sử vùng đất Nga Sơn cũng như tỉnh Thanh Hóa.

Trải qua nhiều thế kỷ, ngôi chùa này đã chứng kiến nhiều biến cố lịch sử, đồng thời cũng trải qua nhiều lần trùng tu, phục dựng. Dựa trên các nguồn tư liệu Hán Nôm, đặc biệt là hệ thống bia ký còn lưu lại, có thể khái quát quá trình hình thành và phát triển của chùa Vân Lỗi như sau:

Theo các văn bia và tư liệu lịch sử, chùa Vân Lỗi được xây dựng vào thời Trần (thế kỷ XIV). Sách Thanh Hóa tỉnh chí ghi nhận: “Núi Vân Lỗi quanh co đột nhiên mọc lên trên mảnh đất cao ven sông, nhiều đá lởm chởm và sâu thẳm như tán như tụ. Giữa những khe đá có hoa cỏ chen nhau, trông vẻ ngũ sắc tô điểm, ở giữa có một ngọn núi cao chót vót đứng thành hàng trăm núi đá nhọn như giáo, lưng chừng vách núi có động, động có chùa, chùa cổ mà bia đá thành hoang tàn...”.

Tấm bia thời Trần (1372) do Phạm Sư Mạnh (đỗ Thái học sinh) đang làm Hữu bộc xạ triều Trần soạn (“Sùng Nghiêm tự Vân Lỗi sơn đại bi nham”) ghi lại việc Đại Hòa thượng trụ trì chùa Khánh Lâm đã phát tâm xây dựng chùa tại núi Vân Lỗi, tạc tượng Tam Thế bằng vàng, mở am tu và cúng ruộng đất cho chùa. Bia cũng miêu tả địa thế hùng vĩ của núi: “Đông có xóm làng, nhà cửa đông đúc có thể làm nơi chung đỉnh của hào gia. Nam gần sông lớn chảy tới biển khơi, có thể làm chốn mênh mông cho thế giới. Tây có sông Kinh len lỏi tới hương Đại Lợi, núi Ma Ni có thể làm cảnh tráng quan cho các vùng quận huyện. Bắc kề đường lớn, ăn thông với Thần Đầu hải khẩu, có thể làm nơi nghỉ tốt cho kẻ lại người qua”. Điều này, cho thấy khi Phạm Sư Mạnh đến Vân Lỗi vãn cảnh thì chùa này đã có rồi, vốn là một chùa lớn, có mấy pho tượng bằng vàng ròng... Chùa Vân Lỗi đã là một trung tâm Phật giáo quan trọng từ thời Trần, gắn liền với các hoạt động tâm linh và văn hóa của vùng.

Đến thời kỳ Lê - Trịnh (thế kỷ XVI - XVIII), chùa Vân Lỗi tiếp tục được tu bổ và trở thành điểm đến của nhiều danh nhân, văn sĩ. Năm 1650, chúa Trịnh Tráng (Thanh Đô Vương) trên đường bái yết Sơn lăng đã dừng chân tại đây và khắc bài thơ “Danh thắng cao tiêu đệ nhất châu” lên vách núi, ca ngợi cảnh sắc nơi đây:

“Danh thắng nêu cao đệ nhất châu,

Dáng non như vẽ nước như dầu.

Nửa khép động non mời hạc tới,

Chắn ngang doi cát giỡn chim âu...”.

Đến khoảng năm 1770, 1771, dưới thời vua Lê Hiển Tông, chùa được trùng tu. Điều này, được thể hiện qua nội dung tấm bia “Vân Lỗi sơn ký” được khắc năm 1771, ca ngợi cảnh ngôi chùa: “Kìa núi xanh rậm và vút lên thẳng đứng như bức bình phong ngọc, lại như trướng gấm thế kia. Đó chẳng phải là cái vẻ đẹp của núi Vân Lỗi ư? Phía trước núi là dòng sông lớn, triều dâng sóng cuộn, lồng lộng vòng eo, thủy triều lên xuống sớm chiều nhiều vẻ...”. Sách Lịch sử Phật giáo Thanh Hóa (GHPGVN tỉnh Thanh Hóa, Lê Mạnh Thát hiệu đính, Nxb Thanh Hoa, 2019, trang 224-225) cho rằng tác giả bia là Ninh Tốn. Tuy nhiên, tôi cho rằng đây không phải là tấm bia của Ninh Tốn. Bởi sách Thơ văn Ninh Tốn (Hoàng Lê chủ biên, Nxb KHXH, Hà Nội, 1984, trang 8 ghi rõ: “Năm 27 tuổi (1770), đề thơ ở núi Vân Lỗi (thuộc địa phận Thanh Hóa), khi Tĩnh vương Trịnh Sâm đi xem xét phong tục thấy bài thơ trên, biết là của ông, mến tài thơ ấy mà triệu ông vào giữ chức Phiên liêm tri binh phiên”. Điều này, cả Gia phả họ Ninh1 (ở làng Côi Trì, xã Yên Mỹ, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình) cũng ghi lại chi tiết này.

Bài thơ của Ninh Tốn đề khắc ở núi, chùa Vân Lỗi là bài: Vân Lỗi sơn.

“Ái châu đa thắng quan,

Vân Lỗi ký nhân san.

U nham tàng phạn vũ,

Tiêu bích thuyên thần hàn.

Viễn củng thanh thiên đinh,

Tiền vu bạch nhất loan.

Hoa thụ các kim cổ,

Thủy thạch tự mang nhàn.

Đăng lam dạo đệ xứ,

Thân uyển tai vân đoan”.

(Châu Ái nhiều kỳ quan thắng cảnh,

Núi Vân Lỗi là một trong số đó.

Núi thanh u ẩn một ngôi chùa,

Vách núi có khắc nét bút của nhà vua.

Xa xa muôn ngọn núi xanh chầu về,

Một dòng sông trắng xóa quanh co phía trước.

Cây cỏ các loại đều có xưa và có nay,

Sông núi tự nó bận bã và tự nó nhàn nhã.

Trèo lên rồi nhìn ra chốn xa xa,

Cảm thấy thân mình y như ở đỉnh đám mây)2.

Do vậy, tôi cho rằng đây không phải là do Ninh Tốn sáng tác, đề, khắc mà là bia của một tác giả khác. Còn bia khắc bài thơ của Ninh Tốn có lẽ đã bị hư hại rồi.

Như vậy, trong giai đoạn này, chùa Vân Lỗi vẫn giữ được vị thế là một danh lam thắng cảnh, đồng thời là nơi giao thoa giữa Phật giáo và văn hóa bác học.

Đến thế kỷ XIX, chùa dần rơi vào cảnh hoang phế. Sách Đại Nam nhất thống chí (thế kỷ XIX) miêu tả: “Lên núi trông ra ngoài cửa biển Bạch Câu thì thấy chim biển, thuyền buồm hiện ra trước mắt”.

Tuy nhiên, chùa đã không còn giữ được quy mô như xưa. Theo các cụ cao niên địa phương, trước năm 1945, chùa còn 25 pho tượng, nhưng nhiều tượng đã bị phá hủy trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp.

Đến năm 1978, nhân dân trong xã phát động phong trào khôi phục lại ngôi chùa. Năm 1996-1997, ngôi chùa và phủ Thiên Tiên Thánh Mẫu được xây dựng lại. Từ năm 2023, chùa được trùng tu, xây lại một số hạng mục, thỉnh tôn tượng Quán Thế Âm Bồ tát...

Hiện nay, chùa nằm ở sườn núi phía Nam, cách mặt đất khoảng 50m, được xây kiểu mái vòm, chỉ có một gian hậu cung, lưng tựa vào vách núi. Đường lên chùa men theo sườn núi. Ngay sát cửa chùa, trên vách đá không biết từ bao giờ có bức họa một vị Bồ tát. Thượng điện chùa được bài trí gồm bốn hàng:

Hàng thứ nhất (trên cùng) gồm ba pho Tam thế Phật.

Hàng thứ hai gồm ba pho: Giữa đặt tượng Như Lai, hai bên là hai tượng Quan Âm.

Hàng thứ ba bài trí pho tượng Quán Thế Âm thiên thủ thiên nhãn.

Hàng thứ tư là tòa Cửu Long.

Hàng thứ năm là tượng Thánh tăng và Đức Ông.

Phía dưới, bên cạnh đường lên chùa có tượng Quán Thế Âm lộ thiên.

 

 

Tượng Quan Âm lộ thiên cạnh đường lên chùa

 

Ngoài cảnh đẹp nổi tiếng, chùa Vân Lỗi còn gắn liền với nhiều sự kiện lịch sử như trận huyết chiến của Thượng tướng Trần Quang Khải đánh giặc Nguyên Mông, nơi an trí của mẫu thân của Trần Xuân Soạn, một đầu lĩnh khởi nghĩa Ba Đình. Tháng 5-1950, cũng tại chùa Vân Lỗi đã diễn ra Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Nga Sơn lần thứ 3, với nghị quyết lịch sử: Rào làng chống càn thắng lợi. Đây cũng là nơi tổ chức Đại hội thành lập Đảng bộ huyện Kim Sơn của tỉnh Ninh Bình...

2. Di sản văn bia tại núi, chùa Vân Lỗi3

Tại núi, chùa Vân Lỗi ghi dấu của nhiều tao nhân, mặc khách, vua, chúa, quan đại thần, nhà khoa bảng... tới tham quan, khắc thơ, văn trên vách núi. Theo Lý lịch Di tích lịch sử văn hóa nhóm bia đá chùa Vân Lỗi (núi Vân Lỗi) xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, thì “quanh chùa có không dưới 10 tấm bia lớn nhỏ, nhưng giờ chỉ còn 5 tấm (một tấm đã bị vỡ gần hết), đồng thời trong chùa có một hòn đá thuyền kích thước 10 x 3m, gọi là hòn “Thạch Bàn”. Sau đây, xin cung cấp nội dung về 5 tấm bia ma nhai hiện còn ở núi, chùa Vân Lỗi.

Tấm bia thứ nhất4:

Bia có tên “Vân Lỗi sơn kí”, được khắc năm Cảnh Hưng thứ 32 (1771). Diềm bia trang trí hoa văn trơn dật 3 cấp, mỗi cấp rộng 2 cm. Kích thước thân bia 1,4m x 1,8m với 18 dòng chữ Hán (thể chữ Chân). Hiện chữ bị mòn, mờ nhiều, rất khó đọc nên chưa rõ tác giả là ai, đọc được tên người chép là Doãn Trọng Thường người xã (Tảo?) Khê, huyện Thượng (Phúc?), phủ Thường Tín. Nội dung của bia: Phần đầu văn bia lý giải vì sao ngọn núi này có tên là “Vân Lỗi”? Vì trên núi có nhiều vách đá trập trùng, hom hỏm như tán như tụ, cao hàng trăm thước. Từ đó, trên núi đã có ngôi chùa lớn và có bia đá nhưng chưa rõ có từ khi nào? Trải qua các triều đại, đặc biệt là thời Trần đã có nhiều tao nhân mặc khách qua núi Vân Lỗi làm thơ và khắc bia lưu lại cho bao đời. Núi Vân Lỗi hùng vĩ là vậy, những dòng nước trên núi sâu thẳm mà sớm chiều lên xuống. Chùa Vân Lỗi uy nghi mà tĩnh lặng luôn tỏa ra mùi hương ngào ngạt. Thật xứng là kì quan của hàng trăm ngàn năm vậy.

 

 

Tác giả đang khảo sát tấm bia thứ nhất
tại núi, chùa Vân Lỗi.

 

Tấm bia thứ hai:

Bia được khắc năm 1650, do Đại nguyên soái tổng quốc chính, sư thượng thượng phụ, duệ đoán, Văn Công Vũ Đức Thanh Vương (tức chúa Trịnh Tráng) ngự bút. Bia có chiều dài 1,6m; cao 1,44m; diềm bia rộng 10cm trang trí hoa văn hình Kỷ hà. Trong khuông Kỷ hà được trang trí hoa cúc nhiều cánh, diềm thân và diềm đế cùng được thể hiện loại hoa văn Kỷ hà. Trên bia khắc bài thơ thể “Thất ngôn bát cú” nói lên cảnh đẹp của núi non và vùng đất nơi đây.

Phiên âm:

Canh Dần đông, Dư bái yết sơn lăng, lộ kinh Nga Sơn chi Vân Lỗi, sơn sắc ba quang tú lệ khả ái, viên kinh đan đăng ngạn, [...] lãm nhất biến, ngâm hứng bột sinh, vĩnh lưu vu thạch.

Danh thắng cao tiêu đệ nhất châu,

Sơn dung như đại thủy như du.

“Bán phong sơn động yêu huyền lạc,

Bình trướng sa đinh hạp bạch âu.

Tuyết kính tiều duyên ngoan thạch cước,

Đan trình khách độ cấp than đầu.

Bằng cao dục tận quan lan hứng,

Bích lạc thương minh nhất sắc thu”.

Đại nguyên soái tổng quốc chính, sư thượng thượng phụ, Duệ đoán, Văn Công Vũ Đức Thanh Vương ngự bút.

Dịch nghĩa:

Mùa đông năm Canh Dần (1650), ta đi bái yết sơn lăng, qua núi Vân Lỗi ở Nga Sơn. Ánh sóng, sắc non xiết bao xinh đẹp, ta liền bỏ thuyền lên bờ, ngắm nhìn khắp lượt, hứng thơ dào dạt, liền khắc ghi lên đá để truyền lại lâu dài:

Danh thắng nêu cao đệ nhất châu,

Dáng non như vẽ, nước như dầu.

Nửa khép động non mời hạc tới,

Chắn ngang doi cát giỡn chim âu.

Lối tuyết chú tiều men dưới núi,

Đường tiên du khách vượt ghềnh sâu.

Lên cao tận hưởng vui xem sóng,

Biển biếc mịt mờ một sắc thu.

Đại nguyên soái tổng quốc chính, sư thượng thượng phụ, Duệ đoán, Văn Công Vũ Đức Thanh Vương ngự bút”.

 

 

Tấm bia thứ hai

 

Tấm bia thứ ba:

Tấm bia có tên là “Sùng Nghiêm tự, Vân Lỗi Sơn, Đại Bi Nham”, do Hữu Bộc xạ Hiệp Thái Phạm Sư Mạnh biên soạn vào năm Thiệu Khánh thứ 3 (1372). Bia có kích thước: Cao 1,14m, rộng 87cm; phần trán bia cao 17cm, được chạm khắc hình đôi rồng thời Trần ẩn trong mây, mỗi rồng ngậm một viên ngọc nơi miệng, thể hiện đặc trưng mỹ thuật cung đình. Diềm bia rộng 5cm được trang trí hoa văn hình mây mềm mại, còn diềm dưới rộng 10cm, khắc hoa văn hình sóng nước, góp phần tạo nên bố cục cân đối, hài hòa cho tổng thể bia. Toàn văn bia được khắc bằng chữ Hán theo thể chân phương, gồm 25 dòng, mỗi dòng khoảng 30 chữ, nội dung chủ yếu là ca ngợi vẻ đẹp kỳ vĩ, phồn thịnh của non sông, làng mạc nơi danh sơn tọa lạc, đồng thời phản ánh phần nào tư tưởng mỹ học và cảm hứng thiêng liêng của người xưa đối với thiên nhiên và cảnh chùa nơi đây.

Phiên âm:

Sùng Nghiêm tự Vân Lỗi sơn Đại Bi nham

Phù nhị nghi hữu tượng, hiển phú tải dĩ hàm sinh; tứ thời vô hình, tiềm hàn thử dĩ hóa vật. Viên dĩ khuy thiên giám địa, dung ngu gia thức kì đoan; minh âm động dương, hiền triết hãn cùng kì số. Nhiên nhi thiên địa bao hồ âm dương nhi dị thức giả dĩ kì hữu tượng dã; Âm dương xử hồ thiên địa nhi nan cùng dã. Cố tri tượng hiển khả trưng, tuy ngu bất hoặc, tiềm hình mạc đổ, tại trí do mê. Huống hồ Phật đạo sùng hư, thừa u khống tịch.

Kim trụ trì Đại Hòa thượng, ẩn lâm nhất minh, xả thân xuất gia vi phù đồ, trụ trì Khánh Lâm tự, hữu chiếu mệnh dĩ đa niên hĩ. Tắc thừa hứng du phương, kiến Vân Lỗi sơn, tứ phương uất mậu, kỳ tâm khả ngoạn. Tắc khai sơn tạc thạch, kiến lập sổ am, tố Tam thế nhất bộ, toàn kim tí vu cao sơn, thần hôn chúc đảo: Hoàng đồ củng cố, thiên hạ thái bình, Thánh cung vạn tuế.

Niệm kì Đông hữu tụ lạc, lục li ốc xá, khả vi hào gia chi phú quí. Kỳ Nam ấp Trường Giang, xuất địa hải chi khẩu, khả vi thế giới chi minh mang. Kỳ Tây hữu Kinh, phái lạc thấu đáo Ma Ni sơn Đại Lợi chi hương, khả vi quận huyện chi tráng quan. Kỳ Bắc hữu đại lộ, dẫn xuất Thần Đầu chi hải khẩu, khả vi khứ lai chi tín tú. Cương dĩ tứ phương vi giới, trấn ư Vân Lỗi sơn chi chủ dã.

Kim hữu hoang thổ hàm thủy, cước sơn dụng đương nhị diện hữu dư. Đông cận tiểu mạch khê sơn, xuất thủy vi giới; Tây thủ vĩ sơn, để xứ tụ nhân vi giới. Lưu thông thường trụ Tam Bảo, dĩ dưỡng chúng tăng, bổ trợ mạc lưu đồi hoại, cẩn thuật bỉ hoài, nhi lị kỳ nhật nguyệt cố lập thạch khắc.

Minh viết:

Vân Lỗi chi sơn,

Am tại giang biên.

Kiến lập chi nhân,

Hạnh giải câu toàn.

Tư cập tồn vong,

Phúc ấm thiên niên.

Đại Bi thùy từ,

Cứu độ chúng sinh.

Thượng dẫn mê đồ,

Hạ tế hàm linh.

Nhân nhân hoan duyệt,

Xứ xứ văn thanh.

Diệu đạo ngưng huyền,

Mạc tri kỳ tế.

Hối ảnh quy chân,

Thiên nghi việt thế.

Kim dung yếm sắc,

Hiện xuất quang lệ.

Sơn thần ủng hộ,

Đàn na cúng thí.

Thần hôn bất tuyệt,

Phú gia tụy chí.

Tư tự tư minh,

Khắc vi quốc thụy.

(Thiệu Khánh tam niên Nhâm Tý tuế nhị nguyệt thập lục nhật). Hữu Bộc xạ, Giáp Thạch Phạm Sư Mạnh cẩn thuật.

Chi hầu Dũng Thủ Mai Tỉnh thư.

Tại phận trường Hoàng Xá xã Tiền Lang dưỡng bà Nguyễn Thị Vĩnh nhất nhân, hữu điền tại Bái Mê điền nhị (?) giới cận Lục lang, Tây Bắc các cận lộ. Tịnh kỳ nam cận Lê Ngọc Hoàn vi giới, thí vi lưu thông Tam Bảo.

Tại phận trường Đồng Khoái thôn Nội Hộ Lương Thị Tú nhất nhân, hữu điền tại Xá Thệ... điền nhất diện, Đông cận cố Lương Nễ, Nam bán cận Mai Thị Ả, Tây cận Lương Súy, Bắc cận Trương Cá Luật vi giới, thí vi lưu thông Tam Bảo, đại đại tử tôn bất đắc tranh nhận.

Tại phận trường Lục Lang Trương Đệ tịnh Thị Ẩn hữu điền tại Bái Tư động dụng nhất sào, Động cận... Trương Đệ, Tây cận cố Lương Tao, Nam cận Nguyễn Cự Thuyên, Bắc cận Nguyễn Cổ Phùng vi giới, thí vi lưu thông Tam Bảo.

Tại Xa Lỗi xã, Mai Dưỡng Khách tịnh thê Nguyễn Thị (?) hữu điền tại... bát sào, thí vi lưu thông Tam Bảo.

Tại... Thí Xung lang Hiền Uy cư sỹ hữu điền tại cước sơn... thí vi lưu thông Tam Bảo.

Tại... xã Nguyễn Ngọ tịnh tôn Đỗ Báo hữu điền cố Ông nhất khảm, tại cước sơn Xa Lỗi đồng, Đông cận chủ điền địa mộ, Tây cận tự Nguyễn Quý, thí vi lưu thông Tam Bảo.

Tại Xa Lỗi xã... nhất nhân hữu thổ trạch dụng nhất sào, Tây Bắc cận lộ tịnh kiều, thí vi lưu thông Tam Bảo, tịnh ư sùng mị tự hựu cáo nhược... tăng tính mỗ nhân cư sứ kỳ tự, tức ký Pháp sư niên trung kỵ lạp, mạc lưu không khuyết, miễn chiên miễn chiên, cẩn thị cát thực.

Môn sâm lĩnh tỉnh thượng vân đoan,

Thân tại bích tiêu vân hán gian.

Hạ thị kình đào thiên vạn lý,

Trường thiên phù thủy thủy phù thiên.

Hữu Bộc xạ Giáp Thạch Phạm Sư Mạnh nghĩa phu.

Dịch nghĩa:

Hang Đại Bi chùa Sùng Nghiêm núi Vân Lỗi

Phàm trời đất có hình tượng, tỏ rõ sự chở che để nuôi dưỡng sinh linh; bốn mùa không hình dáng, ngầm chứa nóng lạnh để hóa sinh vạn vật. Bởi thế, nhìn trời xem đất, kẻ tầm thường cũng biết được manh mối; sáng tối đổi thay, bậc hiền triết khó lường hết lẽ huyền vi. Song trời đất bao bọc âm dương mà dễ nhận biết là nhờ có hình tượng; âm dương tồn tại trong trời đất mà khó thấu hiểu trọn vẹn.

Nay vị trụ trì Đại Hòa thượng, ẩn cư nơi rừng thiêng, từ bỏ thế tục xuất gia theo Phật, trụ trì chùa Khánh Lâm đã nhiều năm theo chiếu chỉ, nhân du ngoạn các phương, thấy núi Vân Lỗi bốn bề sum suê, lòng sinh cảm hứng, bèn khai sơn đục đá, dựng mấy am nhỏ, đúc một bộ tượng Tam thế bằng vàng ròng đặt trong hang núi cao, ngày đêm cầu nguyện: ngai vàng vững bền, thiên hạ thái bình, bệ hạ trường thọ.

Xét nơi đây: Phía Đông có làng mạc trù phú, nhà cửa san sát, có thể làm nơi phú quý vinh hoa. Nam bọc sông dài, thông ra cửa biển Đại Hải5, có thể làm chốn mênh mang bát ngát. Phía Tây có kênh rạch chảy đến núi Ma Ni6 hương Đại Lợi7, có thể làm thắng cảnh cho quận huyện. Phía Bắc giáp đường lớn thông ra cửa biển Thần Đầu, có thể làm nơi dừng chân cho lữ khách. Lấy bốn phương làm giới hạn, chính giữa là ngọn Vân Lỗi sừng sững.

Nay có mảnh đất hoang gần chân núi, phía Đông giáp khe nhỏ, phía Tây tiếp dãy núi8, đến chỗ dân cư làm giới hạn, xin cúng vào chùa làm ruộng Tam Bảo để nuôi dưỡng tăng chúng, phần còn lại dùng tu sửa, chớ để cảnh chùa đổ nát. Kính cẩn ghi chép, khắc bia lưu truyền.

Bài minh rằng:

Núi Vân Lỗi cao,

Am bên sông sâu.

Người dựng nên chùa,

Đức hạnh vẹn toàn.

Nghĩ đến còn mất,

Phúc để ngàn năm.

Đức Đại Bi từ,

Cứu độ chúng sinh.

Trên dẫn lối mê,

Dưới độ hàm linh.

Người người vui vẻ,

Chốn chốn nghe danh.

Đạo mầu thâm sâu,

Khôn lường bến bờ.

Bóng trở về chân,

Thân vượt thế tục.

Sắc vàng nhạt phai,

Ánh sáng rạng ngời.

Thần núi phù hộ,

Thí chủ cúng dường.

Hương khói không ngớt,

Giàu sang tụ hội.

Bia này minh văn,

Khắc vào sử sách.

Ngày 16 tháng 2 năm Nhâm Tý, niên hiệu Thiệu Khánh thứ 3 (1372).

Hữu Bộc xạ Phạm Sư Mạnh kính cẩn thuật lại.

Chi hầu Dũng Thủ Mai Tỉnh viết chữ.

Bà Nguyễn Thị Vĩnh ở làng Tiền, xã Hoàng Xá có ruộng tại Bái Mê gần làng Lục, phía Tây và Bắc giáp đường, phía Nam giáp ruộng Lê Ngọc Hoàn, cúng làm ruộng Tam bảo.

Lương Thị Tú người nội hộ thôn Đồng Khoái có một mảnh ruộng tại Xá Thệ, phía Đông giáp ruộng cố Lương Nễ, nửa phía Nam giáp ruộng Mai Thị Ả, phía Tây giáp ruộng Lương Súy, phía Bắc giáp ruộng Trương Cá Luật, cúng làm ruộng Tam bảo, con cháu đời đời không được tranh giành.

Ông Trương Đệ và bà Thị Ẩn ở làng Lục có một sào ruộng tại đồng Bái Tư, phía Tây giáp ruộng cố Lương Tao, phía Nam giáp ruộng Nguyễn Cự Thuyên, phía Bắc giáp ruộng Nguyễn Cổ Phùng, cúng làm ruộng Tam bảo.

Mai Dưỡng Khách cùng vợ là Nguyễn Thị... ở xã Xa Lỗi có ruộng rộng tám sào cúng làm ruộng Tam bảo.

Cư sĩ Hiền Uy ở làng Thí Xung... có khoảnh ruộng tại cánh đồng dưới chân núi cúng làm ruộng Tam bảo.

Ông Nguyễn Ngọ cùng cháu là Đỗ Báo ở xã... có ruộng cố Ông một khám tại cánh đồng dưới chân núi Xa Lỗi, phía Đông giáp mộ chủ ruộng đất, phía Tây giáp ruộng tự Nguyễn Quý, cúng làm ruộng Tam bảo.

Ông... ở xã Xa Lỗi có nhà đất rộng một sào, phía Tây Bắc giáp đường và cầu, cúng làm ruộng Tam bảo, đồng thời ở chùa Sùng Mị có cáo thị rằng... tăng nhân nào ở đất chùa thì phải ghi rõ ngày giỗ của các vị pháp sư, chớ để bỏ trống. Kính cẩn ghi chép.

Trèo mây tay với trăng sao,

Thân nơi sông bạc tầng cao xanh mờ.

Cúi nhìn muôn dặm sóng xô,

Nước lưng trời thẳm, non phô mặt duềnh.

Hữu Bộc xạ Giáp Thạch Phạm Sư Mạnh nghĩa phu.

 


Tấm bia thứ ba

 

Bia thứ tư:

Bia có kích thước 72 x 64cm, diềm bia rộng 6cm, trang trí hoa văn dây cúc leo cách điệu, diềm đế trang trí một lớp hoa văn cánh sen.

Bia chỉ có hai dòng chữ lớn, dòng trên khắc: “Sùng nghiêm am tự kí” (Ghi chép ở chùa Sùng Nghiêm). Dòng dưới: “Trụ trì (?) (?) Nguyễn Phúc Công tự Huệ Dung đạo hiệu Vĩnh Toàn Thiền sư” (Thiền sư trụ trì họ Nguyễn, tên tự Huệ Dung, hiệu Vĩnh Toàn).

 


Tấm bia thứ tư

 

Bia thứ năm:

Bia thứ năm nằm ở phía phải của ngôi chùa, kích thước còn lại đo được rộng 1,1m; cao 97cm, diềm bia rộng 6cm, được trang trí hoa văn dây leo cách điệu. Hiện bia bị vỡ nhiều, những chỗ còn chữ lại bị nứt theo đường gân đá do vậy chỉ có thể đọc được một số ít chữ.

Nội dung chính của bia, ca ngợi lẽ huyền diệu của đạo Phật. Phần cuối của văn bia, kê tên những người có tiền, của công đức vào chùa.

 

Tấm bia thứ năm

 

3. Một số nhận xét

Như vậy, chùa Vân Lỗi là một trong những di tích lịch sử – văn hóa đặc sắc của tỉnh Thanh Hóa. Với lịch sử hình thành và phát triển kéo dài hơn 600 năm, từ thời Trần, qua các triều đại Lê, Nguyễn cho đến ngày nay, ngôi chùa không chỉ là trung tâm tôn giáo quan trọng mà còn là điểm hội tụ tinh hoa văn hóa, nghệ thuật và lịch sử vùng đất Nga Sơn.

Một trong những giá trị nổi bật và độc đáo nhất của chùa chính là hệ thống văn bia phong phú, có niên đại từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVIII. Các tấm bia đá này không chỉ phản ánh đời sống Phật giáo và tín ngưỡng qua các thời kỳ, mà còn là kho tư liệu quý báu cho nghiên cứu lịch sử, văn học, thư pháp Hán Nôm và nghệ thuật điêu khắc đá truyền thống. Nội dung văn bia ghi chép chi tiết về các sự kiện, nhân vật, bài thơ, câu đối, từ đó hé mở những lát cắt sinh động về sinh hoạt văn hóa – xã hội của địa phương và mối quan hệ giữa chùa với triều đình đương thời.

Trong quá khứ, chùa Vân Lỗi từng là một trung tâm tôn giáo – văn hóa lớn của xứ Thanh, nơi đón tiếp nhiều danh sĩ, văn nhân và quan lại triều đình. Những bài thơ đề vịnh và văn bia của họ còn lưu lại đến ngày nay đã góp phần khẳng định vai trò của chùa không chỉ trong đời sống tôn giáo mà còn trong dòng chảy văn hóa chính thống và dân gian. Sự quy tụ của nhiều văn bia từ các thời kỳ khác nhau càng cho thấy vị thế lâu dài và ảnh hưởng sâu rộng của chùa trong lịch sử khu vực.

Trải qua thời gian và nhiều biến thiên lịch sử, chùa Vân Lỗi vẫn giữ được những giá trị cốt lõi, trở thành điểm tựa tâm linh của cộng đồng và là một phần không thể thiếu trong kho tàng di sản văn hóa xứ Thanh.

 


1. Xem thêm: Đinh Văn Viễn (2019), Làng Côi Trì, xã Yên Mỹ, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình (thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX, luận án tiến sĩ Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

2. Hoàng Lê (chủ biên) (1984), Thơ văn Ninh Tốn, Nxb KHXH, Hà Nội, trang 106-107.

3. Bài viết tham khảo, trích dẫn từ: Ban Quản lý di tích và danh thắng, Sở Văn hóa thông tin tỉnh Thanh Hóa (2007), Lý lịch Di tích lịch sử văn hóa nhóm bia đá chùa Vân Lỗi (núi Vân Lỗi) xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

4. Do có bia không xác định được niên đại, nên thứ tự bia được tính từ dưới chân núi theo đường đi lên chùa.

5. Tức cửa biển Bạch Câu, hiện nay là cửa Lạch Sung, xã Nga Bạch, huyện Nga Sơn. Từ ngày 1-7-2025, xã Nga Bạch thuộc xã Nga Hiệp, tỉnh Thanh Hóa.

6. Núi Ma Ni: Theo văn bia: “Càn Ni sơn Hương Nghiêm tự bi minh” (1125) thời Lý có tên là Càn Ni, đời Trần đổi thành Ma Ni, thuộc làng Phủ Lý, phủ Đông Sơn cũ. Sau thuộc xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa, Thanh Hóa. Từ ngày 1-7-2025, xã Thiệu Trung vẫn thuộc xã Thiệu Trung (nhưng xã Thiệu Trung mới gồm: Xã Thiệu Trung (cũ), Thiệu Vận, Thiệu Lý, Thiệu Viên và một phần thị trấn Thiệu Hóa.

7. Đại Lợi: Theo văn bia “Ngưỡng sơn Linh Xứng tự bi minh” (1126) thời Lý có tên Càn Ni, đến thời Lê kiêng húy đổi thành Đại Lý, huyện Phong Lộc, phủ Hà Trung cũ. Sau thuộc xã Đại Lộc và Đồng Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa. Từ ngày 1-7-2025, xã Đại Lộc thuộc xã Triệu Lộc; xã Đồng Lộc thuộc xã Đông Thành, tỉnh Thanh Hóa.

8. Bản dịch của Sở VHTT tỉnh Thanh Hoa là: “.. tây kề ngọn Vĩ Sơn”. Và chú thích: Vĩ Sơn: Chưa rõ núi nào. Tôi cho rằng chỗ này dịch là: “phía Tây tiếp dãy núi”.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 61)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Thùy Dương
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 60)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Ẩm Túy
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 59)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 68
    • Số lượt truy cập : 8981570