ĐÀNG TRONG THỜI CHÚA MINH NGUYỄN PHÚC CHU
VÕ PHƯƠNG LAN*
Năm 1558, Đoan Quận công Nguyễn Hoàng rời Bắc vào trấn nhậm đất Thuận Quảng. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh đem quân trở về Thăng Long. Cuộc mở cõi dài 244 năm với 10 đời chúa Nguyễn đã hoàn tất cuộc di dân mở đất lâu dài và vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam. Trần Trọng Kim đã nhận định trong sách Việt Nam sử lược rằng, họ Nguyễn: “đã đem giang sơn về một mối, nam bắc một nhà, làm cho nước ta trở thành một nước lớn ở phương Nam”.
Các nhà nghiên cứu đã nhận định thành công của họ Nguyễn Đàng Trong nhờ rất nhiều vào việc nhất quán thi hành hai hướng phát triển kinh tế xã hội căn bản đầy năng động và khai phóng: kinh tế nông nghiệp truyền thống Việt (di dân, định cư, khẩn hoang, trồng lúa) và phát triển kinh tế hàng hoá, mở rộng giao thương quốc tế.
Chính sách di dân, định cư, khẩn hoang
Từ điểm xuất phát là Đồng bằng sông Hồng, cái nôi của nền văn minh lúa nước, Đại Việt luôn có xu hướng mở rộng về phương Nam. Từ thời Tiền Lê, Lý đã tiến hành các cuộc chinh phục. Năm 1306 thời Trần, cuộc hôn nhân của công chúa Huyền Trân đã thu vào Đại Việt hai châu Ô, Lý (đất Đại Việt kéo dài tới bờ bắc sông Thu Bồn). Năm 1471, Lê Thánh Tông nam chinh, định cương giới tại núi Đá Bia (Phú Yên). Nguyễn Hoàng vào Nam năm 1558, hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam, dân (Việt) đã đông, sinh hoạt phong phú. Duy phần phía Nam biên cương chưa ổn định, dân cư thưa thớt, người Chiêm luôn quấy rối.
Trước cuộc Trịnh - Nguyễn phân tranh, khi hai xứ Thuận Quảng còn thông giao với Đàng Ngoài, vẫn thường xuyên có dân từ phía Bắc, Bắc Trung bộ do mưu sinh hoặc tỵ nạn, di cư về Nam, đặc biệt đông vào các năm Bắc Hà đói kém mất mùa. Sử cũ ghi lại: Thanh Hóa, Nghệ An trở ra Bắc vào năm 1559 lụt lớn, năm 1608 đại hạn (trong khi đất Thuận Quảng được mùa) dân lưu tán vào Nam rất nhiều ...
Ngay từ đầu, Nguyễn Hoàng đã có chính sách phát triển vùng trấn nhậm về phía Nam. Một mặt, bằng quân sự dẹp yên những cuộc bạo loạn, ngăn người Chiêm lấy lại đất cũ. Mặt khác để giữ đất, ông cho chiêu tập dân Việt từ Thuận Quảng vào khai khẩn trồng cấy, định cư, chia lập thôn ấp, định đơn vị hành chính, đặt quan cai trị. Năm 1611 bắt đầu đặt phủ Phú Yên với hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hoà, lại lập dinh Trấn Biên (dinh Phú Yên).
Năm 1648, thời chúa Thượng Phúc Lan, Đàng Trong thắng lớn trong trận chiến lần thứ tư với quân Trịnh, bắt sống tướng Trịnh cùng ba vạn tù binh. Đã có một cuộc định cư dân lớn tại phía nam Thuận Quảng. Sách Đại Nam thực lục (ĐNTL) viết:
Chúa nó : “Hiện nay từ miền Thăng (Thăng Bình, Quảng Nam) trở về nam đều là đất cũ của người Chàm, dân cư thưa thớt, nếu đem chúng (tù binh) an tháp vào đất ấy, cấp cho canh ngưu điền, chia ra từng bộ từng xóm, tính nhân khẩu cấp cho lương ăn để chúng khai khẩn ruộng hoang, thời trong khoảng mấy năm, thuế má thu được có thể đủ giúp quốc dụng, và sau 20 năm, sinh sản ngày nhiều, có thể thêm vào quân số, có gì mà lo về sau!” Bèn tha bọn Gia, Lý (tên 2 tướng Trịnh) và bọn tỳ tướng hơn 60 người về bắc, rồi chia tán số binh ra ở các nơi, cứ 50 người lại làm một ấp, đều cấp cho lương ăn nửa năm. Lại ra lệnh cho nhà giàu bỏ thóc cho họ vay và cho họ được tìm lấy những mối lợi từ núi đầm mà sinh sống. Từ đó từ Thăng Bình đến Phú Yên, làng mạc liền nhau, về sau sẽ thành hộ khẩu.[1]
Năm 1653, đời chúa Hiền Phúc Tần, họ Nguyễn đã vượt núi Thạch Bi, lấy đất đến sông Phan Rang, lập dinh Thái Khang (Khánh Hoà) cho người trấn giữ, bắt Chiêm Thành phải triều cống. Năm 1692, sau khi Nguyễn Hữu Cảnh bình định cuộc quấy phá của vua Chiêm, chúa Nguyễn Phúc Chu cho lập trấn Thuận Thành (Bình Thuận). Chiêm Thành mất.
Thời kỳ mở cõi, dân Việt theo chúa Nguyễn mở cõi phần đông là nông dân mang hành trang là nghề trồng lúa miền Đồng bằng sông Hồng sông Mã. Lưu dân Việt theo chúa Nguyễn thủa ấy đã bằng sức lao động, cái cày, con trâu, cây lúa để sinh tồn, cùng nhau chinh phục thiên nhiên, khai phá đất đai, lập làng xóm, mở mang lãnh thổ suốt trong hai thế kỷ 17, 18.
Chính sách mở cõi của các chúa Nguyễn luôn nhất quán: có thể chính quyền đứng ra trực tiếp tổ chức chiêu mộ dân đi khai khẩn, hoặc thi hành những chính sách nhằm tạo điều kiện, hỗ trợ, khuyến khích việc di dân mở đất. Tổ chức bộ máy quản lý tại những địa phương mới linh hoạt theo kiểu quân chính. Người Việt quần tụ ở đâu thì luôn có người của chính quyền theo sau bảo vệ. Các võ tướng chỉ huy lực lượng quân đồn trú, đồng thời cũng mang chức năng đứng đầu bộ máy hành chính sở tại. Do vậy mà việc quản lý dân được hình thành sớm, tạo ra tiền đề chính trị cho sự phát triển hoàn thiện hệ thống xã hội người Việt tại địa phương. Các đồn thủ nói trên không chỉ làm có nhiệm vụ an ninh, quốc phòng mà còn kiêm quản lý xã hội, hỗ trợ phát triển nông nghiệp, thương nghiệp và các ngành kinh tế khác tại các vùng đất mới.
Với mục đích khuyến khích xây dựng kinh tế nông nghiệp, chính quyền cho phép những người dân xứ Thuận, Quảng có đầu óc kinh tế, có vật lực (địa chủ, phú gia) được tự do chiêu mộ dân đi khai khẩn. Họ được hưởng những ưu đãi đặc biệt như: miễn thuế ba năm đầu, phần lớn ruộng đất khai phá được đều trở thành ruộng tư của họ, được mua nhân công, được ưu đãi về sưu thuế. Khi lập thôn ấp thì họ được giữ những chức sắc cao nhất.
Ngay dầu thế kỷ 17, chúa Sãi Phúc Nguyên đã dụng tâm mở ra việc bang giao với Chân Lạp và gây dựng những cơ sở đầu tiên trên đất Nam Bộ. Năm 1620, chúa gả con gái (công chúa Ngọc Vạn) cho quốc vương Chân Lạp Chey Chettha II. Công chúa được phong hoàng hậu. Năm 1623, chúa sai sứ sang xin cho người Việt đến làm ăn ở Chân Lạp và lập cơ sở quan thuế ở Prey Kor (Sài Gòn). Lấy cớ để giúp chính quyền Chân Lạp giữ gìn trật tự, chúa phái một tướng lĩnh đến. Sự kiện này khiến di dân Việt có sự hậu thuẫn của nhà chúa và sự bảo trợ của hoàng hậu Chân Lạp, người đến ngày một đông thêm. Và theo thời gian, lưu dân Việt dần tiến sâu đến những vùng đất hoang vu chưa được khai thác của Đồng bằng sông Cửu Long, một số nhóm còn tiến ra chiếm lĩnh các hải đảo.
Các chúa còn chú ý kiểm soát các đảo biển, cho thành lập các đội Trường Sa, Bắc Hải... định kỳ hành năm đến các vùng đảo khai thác sản vật biển, thu nhặt hoá vật của các tàu buôn, tàu chiến đắm dạt vào các cồn đảo.
Năm 1679, Chúa Hiền Phúc Tần nhân muốn khai khẩn đất Chân Lạp, đã cho các tướng tỵ nạn nhà Minh là Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên đem hơn 3.000 quân và 50 chiến thuyền vào định cư tại Đồng Nai, Biên Hòa, Mỹ Tho (Đông Phố Gia Định). Người Hoa cày ruộng, làm nhà, buôn bán, lập phố phường. Với tài thương nghiệp bẩm sinh, người Hoa dần tạo được những điểm buôn bán, những thị tứ sầm uất.
Bang giao với với Chân Lạp, các chúa Nguyễn thi hành kế sách tích cực can thiệp chính trị, bảo hộ phe phái. Triều đình Chân Lạp khi ấy phân hoá, tranh giành liên miên, lôi cuốn cả Xiêm La và Đàng Trong vào cuộc. Khi xảy ra khủng hoảng, các chúa Nguyễn luôn sẵn sàng đưa quân binh giúp dàn xếp. Chân Lạp về phương diện chính trị đã trở thành một nước phụ thuộc vào các thế lực ngoại bang, phải cầu viện, phải triều cống, phải dâng đất ....
Chính sách ngoại giao bảo hộ Chân Lạp song hành với việc đưa lưu dân Việt (và người Hoa tỵ nạn) đến định cư khai thác, dùng lực lượng quân sự hỗ trợ và quản lý dân, sớm tổ chức cộng đồng, tạo nên những tiền đề để họ Nguyễn có thể từng bước hợp pháp hoá sự kiểm soát Đồng bằng Cửu Long một cách hoà bình nhất. Năm1698, chúa Minh Phúc Chu sai Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh kinh lược Chân Lạp. Lễ Thành hầu phân chia địa giới hành chính, đặt quan cai trị, xác lập chủ quyền chính thức của Đại Việt trên vùng Đông Phố (Gia Định, Biên Hòa) mà người Việt đã đặt chân đến trước đó ngót trăm năm. Đến đây họ Nguyễn đã xuống đến vùng Đông Nam Bộ rộng lớn, phì nhiêu.
Cục diện thời chúa Minh, ưu thế chính trị vượt trội của chính quyền Nguyễn đã khiến cho thế lực Hoa kiều họ Mạc đất Hà Tiên - Phú Quốc lựa chọn sát nhập vào lãnh thổ Đàng Trong để sinh tồn. Được cho rộng quyền quản lý, họ Mạc đã xây dựng Hà Tiên - Phú Quốc thành vùng đất giàu thịnh và văn hóa nổi tiếng một thời. Đông Nam Bộ dần được kết nối vào Tây Nam Bộ. Sức lao động của các cộng đồng người Việt, người Chăm, người Hoa, người Khmer đã biến vùng châu thổ Cửu Long hoang vu trở thành vùng lúa khá lớn, buôn bán giao thương phát triển.
Đoạn kết đến vào giữa thế kỷ 18, đời vị chúa thứ tám là Võ vương Phúc Khoát, toàn bộ Thủy Chân Lạp đã thuộc vào Đàng Trong Đại Việt.
Chính sách phát triển kinh tế hàng hoá, giao thương quốc tế
Ly khai chính trị khỏi chính quyền Lê - Trịnh, cuộc cát cứ của họ Nguyễn đầu thế kỷ 17 này cho phép Đàng Trong phát triển độc lập, cởi mở và khai phóng hơn nhiều so với phía Bắc. Đặc điểm nổi bật là việc tiếp thu và phát triển nền giao thương hàng hoá truyền thống Chămpa.[2]
Chămpa cũng như nhiều nước Đông Nam Á khác, từ nhiều thế kỷ trước trước đều tham gia vào cuộc giao thương hàng hoá khu vực. Trước thời Nguyễn Hoàng, kinh tế Chămpa phát triển phụ thuộc nhiều vào việc khai thác khoáng sản, lâm thổ sản quý từ vùng núi cao đưa xuống miền đồng bằng, cung cấp cho các thương cảng biển ven miền Trung, miền Nam, nơi chúng được buôn bán ra nước ngoài như những hàng hoá có giá trị cao, nằm trong mạng lưới thương mại quốc tế vùng Đông Nam Á, Đông Á và xa hơn.
Kết cấu hệ thống Chămpa gồm: các vùng rừng núi, cao nguyên khai thác, các điểm tập trung thu gom hàng (nguồn, trạm, chợ), các đường dây vận chuyển trên bộ, trên sông, trên biển. Nguồn hàng đi từ tây sang đông, từ vùng rừng núi cao qua đồng bằng xuống đến cửa biển. Các tộc người Thượng, người Kinh, người Chăm, người Hoa, các thương nhân nước ngoài... cùng tham dự vào quá trình theo các công đoạn, thời vụ, tại các vùng địa lý nhất định, được phân chia (mà không hề xâm phạm nhau) giữa các tộc người một cách ổn định từ trước đó. Họ chỉ giao tiếp và trao đổi tại các điểm trung chuyển hàng truyền thống.
Hàng hoá được đưa lên tàu xuất đi tại các cảng biển[3]. Cũng từ các cửa biển, hàng hoá nước ngoài được đưa vào nội địa cung cấp cho nhu cầu mọi mặt của dân chúng và chính quyền. Nhà nước thu lợi rất nhiều từ các loại thuế hàng hoá và thuế hải khẩu. Tại Trung bộ, thương cảng lớn nổi tiếng về quy mô quy tập hàng hoá là Hội An[4].
Nguyễn Hoàng đã sớm nhận ra sự lợi hại của ngoại thương đối với việc xây dựng cơ nghiệp Đàng Trong, đã quyết ý tiếp nhận và phát triển mô hình truyền thống Chămpa đó. Về đối ngoại, ngay từ đầu chúa Tiên Nguyễn Hoàng, chúa Sãi Phúc Nguyên lấy cương vị quốc vương để thiết lập quan hệ với các nước có nền ngoại thương mạnh trong vùng, đó là khối Trung Hoa, Nhật Bản và phía Tây phương là Bồ Đào Nha. Các vị chúa kế nối sau đều nhất quán tuân theo tinh thần đó.[5]
Trong nước, chính quyền kiểm soát và khuyến khích các hoạt động khai thác, vận chuyển, buôn bán. Thậm chí, nhà chúa còn tự mình tổ chức việc buôn bán, và còn độc quyền một số mặt hàng giá trị cao (kì nam, hồ tiêu, yến sào...).
Tại các điểm trung chuyển hàng hoá, chính quyền chúa Nguyễn đều có đặt trạm giao dịch, có đồn trú, có quan binh. Hoạt động chủ yếu của quan lại tại đây là đánh thuế hàng hoá, trong khi các đồn binh bảo vệ hoạt động buôn bán lẫn các nguồn thuế mà nó sinh ra. Ngay trong thành phần bộ máy của chính quyền trung ương Đàng Trong cũng có riêng ra một Ty (Ty Nội lệnh sử) chuyên coi về việc thu các thứ thuế. Tại các điểm thu gom hàng, để phục vụ việc bảo quản, chính quyền cho xây dựng những kho chứa hàng lớn. Sách sử ghi: thời chúa Sãi Phúc Nguyên, năm 1617, cho đặt các Nhà đồ (Đồ gia: kho chứa hàng) tại các địa phương. Các kho đều do Ty Nội lệnh sử quản lý[6]. Lợi nhuận thu được từ hoạt động thương nghiệp nhà nước là rất lớn. Ngoài ra, chính quyền còn thu thuế cửa khẩu, thuế hàng hoá xuất nhập cảnh. Số đó cũng chiếm một tỷ lệ quan trọng trong ngân khổ của triều đình.
Đất Trung bộ hẹp với những rặng núi ăn ra tận biển và những dải đồng bằng nhỏ hẹp không mấy màu mỡ. Tình thế khiến dân Việt không thể chỉ co lại với nghề trồng cấy truyền thống trong đất liền (quay lưng lại với biển) như tại vùng đồng bằng rộng lớn Bắc bộ mà buộc phải trông ra biển với nghề đánh cá, khai thác hải vật, buôn bán, giao thông biển. Đi lại giữa các khu vực miền Trung, từ Trung vào Nam Bộ, đường thủy nhanh chóng, thuận lợi hơn nhiều so với đường bộ núi non hiểm trở[7]. Việc mở rộng giao thương buôn bán ra khu vực Đông Á khiến cho xu hướng ra biển ấy càng đậm nét. Biển Đàng Trong luôn tấp nập: thuyền cá, thuyền chuyên chở hàng hoá, thuyền buôn trong nước ngoài nước... Về phía chính quyền có các đội thuyền tuần tiễu, thuyền chiến, thuyền lương, thuyền công vụ... đi về suốt từ vùng biển Quảng Bình vào đến Hà Tiên, Phú Quốc.
Nhập vào từ các cửa khẩu là hàng hoá đủ các loại từ các vùng miền, từ nước ngoài, cung cấp dư thừa cho mọi nhu cầu của triều đình và dân chúng. Nhờ giao thương với nước ngoài, đặc biệt là với Nhật Bản và Bồ Đào Nha, nhà chúa chọn mua được được những vũ khí lạnh làm bằng thép tốt nổi tiếng từ Nhật Bản (gươm, kiếm, trường đao, dao găm, áo giáp...) mua vũ khí nóng (các loại súng, đại bác, đạn dược, thuốc súng...) từ các tàu buôn Tây phương, để trang bị cho quân đội hùng mạnh của mình.
Nhờ thương mại, Đàng Trong thời ấy rất phát triển và giàu có, dần hình thành những thị tứ, đô thị buôn bán sầm uất. Mở rộng giao thương hàng hoá cũng làm xuất hiện và phát triển các ngành chế biến, gia công, chế tác làm phụ trợ, các ngành chế tạo công cụ vũ khí, đóng tàu thuyền, các nghề thủ công đa dạng khác... Dân chúng ngoài nông nghiệp còn có thể tăng thu nhập từ nhiều nghề. Nhà nước thu được nhiều lợi.
Ngân khố dồi dào có được từ thương nghiệp là nguồn tài lực làm nên sức mạnh quân sự, tạo điều kiện thuận lợi cho chúa Nguyễn có thể bảo vệ được mình trước thế lực chúa Trịnh ở phía Bắc[8] và chu cấp đủ nhân lực, tài lực cho sự mở rộng năng động, vững chãi về phía Nam.
Một vài hình ảnh Đàng Trong thời chúa Nguyễn Phúc Chu qua con mắt một nhà sư Trung Hoa
Chúa Minh Phúc Chu (1691 - 1725), vị chúa thứ sáu của Đàng Trong, lên ngôi chúa năm 17 tuổi. Sách sử nhận xét chúa:“văn hay chữ tốt, đủ tài văn võ”. Ông là người thừa hưởng những thành quả rất lớn từ các bậc tiền bối qua một thế kỷ rưỡi mở cõi, lại được trị vì trong thời bình ổn, thịnh đạt nhất của Đàng Trong. Sử viết: “bấy giờ Nam Bắc nghỉ binh hơn 30 năm, trong cõi yên ổn, trăm họ giàu có đông đúc, người ta gọi là đời thái bình”.
Bản thân chúa Minh đã tiếp tục một cách nhất quán công cuộc mở cõi và đã đạt được thành tựu đáng kể, hoàn thành gần xong hình hài cuối cùng của xứ Đàng Trong: lấy phần đất Chiêm Thành cuối cùng (Phan Rang, Phan Rí); chính thức xác lập chủ quyền Việt trên vùng Đông Phố; về phía vịnh Xiêm La, đất Hà Tiên, Phú Quốc của họ Mạc đã sát nhập vào Đàng Trong.
Trẻ tuổi nhất khi lên ngôi, chúa Minh Phúc Chu còn được tiếng là người sùng đạo Phật nhất trong số các vị chúa Đàng Trong. Chúa đã mời Hòa thượng Thạch Liêm[9] dòng Tào Động, chùa Trường Thọ, Quảng Đông - Trung Quốc đến Đàng Trong. Hòa thượng đến Thuận Hóa vào mùa xuân năm 1695 và trở về Trung Quốc vào mùa thu năm sau. Hòa thượng đã viết cuốn Hải ngoại kỷ sự, kể lại những điều mắt thấy tai nghe, những việc ngài đã làm, những nhận xét và một số thơ văn ngài đã làm trong cuộc viễn du. Chính chúa Minh Phúc Chu đã viết Bài tựa cho cuốn sách này. Đây là một trong những tư liệu, hình ảnh quý về xứ Đàng Trong vào khoảng cuối thế kỷ 17.
Lưu lại Đàng Trong khoảng một năm rưỡi. Hai nơi Hòa thượng đã lưu lại là Chính dinh Thuận Hóa và thương cảng Hội An. Hòa thượng đến Thuận Hóa vào cuối tháng giêng 1695, trú tại chùa Thiền Lâm. Tháng 7 năm ấy, Hòa thượng rời Thuận Hóa đi Hội An, định quay về nước. Nhưng tại Cù lao Chàm (đảo Tiêm Bích La) tàu bị trở gió, Hòa thượng lại không được khoẻ nên phải hoãn hành trình mà quay lại Hội An. Tháng 10, chúa Minh cho rước ngài ra Thuận Hóa lần nữa, trú tại chùa Thiên Mụ. Mãi đến hạ tuần tháng 6 năm sau (1696) Hòa thượng mới lên đường trở về Trung Quốc.
Hòa thượng Thạch Liêm được chúa Minh lấy lễ sư phụ tôn thờ, tiếp rước rất long trọng chu đáo. Phục dịch Hòa thượng và đoàn sư tăng tháp tùng trên đường du hành, tại các nơi tá túc, cung đốn phục vụ cho các Phật sự (Giới đàn, pháp hội, đàn thuyết pháp, cung dưỡng...) của Hòa thượng đều do quân đội nhà chúa đảm nhiệm. Tính kỷ luật, hiệu quả của quân binh gây ấn tượng mạnh. Hòa thượng rất đỗi khâm phục và ghi chép khá nhiều về lực lượng này.
Các sử liệu cho biết Đàng Trong rất mạnh về quân sự. Có đủ các binh chủng Bộ binh, Pháo binh, Tượng binh, Kỵ binh và Thủy binh. Phải nói là họ Nguyễn Đàng Trong nhờ vào lực lượng vũ trang mà hoàn thành cơ nghiệp lớn. Giao thương quốc tế đa dạng, các chúa Nguyễn mua được những vũ khí nước ngoài tốt nhất. Quân đội của nhà chúa được trang bị vũ khí tốt nổi tiếng từ Nhật Bản, Bồ Đào Nha. Hòa thượng Thạch Liêm khi đến yết kiến chúa Minh, tận mắt nhìn thấy nhiều súng đại bác lớn nhỏ, đúc rất tinh xảo đặt tại phủ chúa.
Sắp đến vương phủ, mênh mông không có thành quách, xung quanh trồng tre gai làm rào; trong tre cất một hàng trại lợp bằng cỏ tranh; mỗi trại đều có đặt súng đồng, nặng từ vài trăm cân đến vài nghìn cân, đúc rất tinh xảo, khảm châu sa phỉ thúy, văn vẻ sáng ngời, nhờ công chùi đánh lâu năm mới được như thế; nếu đem số đồng này đúc lư, đúc bình, làm đồ gia dụng, quý giá chẳng biết bao nhiêu mà kể. Sau trại súng lại có hàng rào tre gai, phía trong có vòng tường thấp, rộng chừng một hai dặm, Vương phủ ở trong ấy.[10]
Các súng đại bác ở đây, dưới mắt nhà sư Trung Hoa không chỉ là vũ khí mà còn rất đẹp, có thể xem là tác phẩm nghệ thuật. Những nguồn tư liệu khác cũng cho biết, thời chúa Sãi Phúc Nguyên, khi các đội thuyền định kỳ đến các biển đảo khai thác sản vật, thu nhặt hoá vật đã thu được rất nhiều vũ khí các loại, trong đó có cả súng đại bác từ các tàu chiến nước ngoài bị đắm tấp vào các cồn, đem về dâng cho nhà chúa. Một thừa sai Công giáo có mặt ở Đàng Trong thời chúa Sãi Phúc Nguyên cho biết: riêng trong phủ chúa có tới 60 cỗ đại bác trong đó có những cỗ rất lớn[11]. Từ thời chúa Hiền Phúc Trăn tại Chính dinh Thuận Hóa đã có lò đúc súng tại phường Thợ Đúc.[12]
Quân binh chuyên nghiệp không chỉ chuyên đánh trận mà còn thực hiện mọi công tác nhà chúa yêu cầu, vừa là lính vừa là thợ. Có thể thấy hình ảnh họ qua cuộc xây cất phục vụ đoàn tăng nhân nước ngoài tại chùa Thiền Lâm Thuận Hóa:
(chúa Minh) Hỏi: Nhà ở được yên chăng?
(Hòa thượng) Trả lời: Chật hẹp tối tăm, không được khoan khoái.
(chúa) Hứa đến ngày mồng 3 (tháng 2) sẽ khiến người khởi cất phương trượng mới ... (Hòa thượng) thầm bảo chừng một vài tháng sau sẽ được an cư. Qua ngày sau, chừng canh ba, nghe ngoài cửa có tiếng ồn ào, thì ra một viên Nội giám, hai viên bộ Công, dẫn đến vừa lính vừa thợ chừng nghìn người để xây dựng nhà cửa. Mờ sáng, kẻ vác tre, người vác gỗ, kẻ đánh tranh, người vót mây, lại có người cuốc đất đắp nền, hoặc leo lên mái nhà gọi nhau, hoặc đào hầm đất đi xuống. Từ sáng đến tối liền 3 ngày đêm, cất xong một tòa phương trượng năm gian 32 cột, 4 phía có hành lang, vách tường, rầm thượng, rầm hạ đều bằng ván; và một nhà hậu liêu 5 gian 20 cột cũng đồng thời làm xong. Nhơn hỏi chuyện rằng, trong nước trăm thứ thợ đều do quân nhân làm.[13]
Và cuộc xây cất tại chùa Di Đà, Hội An:
Mồng 2 tháng 7 đình trú chùa Di Đà. Nhà chùa chật hẹp, không đủ chỗ chứa đông người, phải phân tán ở Quan Âm đường và các nơi khác. Nghĩ ở tạm ít ngày, sẽ lên tàu về nước, chẳng cần làm thêm nhà cửa, sợ phiền khổ quân dân. Nhưng Cai bá chẳng dám trái lệnh quốc vương, rạng ngày đã thấy tre gỗ tấp nập, sáng khởi công, chiều đã làm xong 8,9 gian liêu xá, chính giữa dựng một gian nhà rộng để tiếp khách.[14]
Chúa Minh sùng mộ Phật giáo, hết sức phò trợ cho Phật sự của Hòa thượng Thạch Liêm. Tại Thuận Hóa, Hòa thượng đã chủ trì các Giới đàn quy mô lớn. Ngày mồng 1 tháng 4, Pháp hội được long trọng khai mạc tại chùa Thiền Lâm, Hòa thượng truyền Sa nhi giới. Ngày mồng 6 giới đàn truyền Tỳ Kheo giới. Có hơn một nghìn bốn trăm tân giới tử được thọ giới. Lễ nghi cực kỳ hoành tráng, giới điệp cấp phát cho các giới tử đều có đóng Kiềm Vương ấn. Mồng 8 tháng 4 là ngày Phật Đản, chúa Minh khai đàn tại Nội viện, có quốc mẫu, công chúa, hậu cung, quyến thuộc ... đều thọ Bồ Tát giới. Cũng ngày hôm ấy, giới đàn tại chùa Thiền Lâm truyền Bồ tát giới cho quan lại quý tộc. Ngày mồng 9 Hòa thượng truyền Bồ Tát giới cho tăng chúng. Đến ngày 12, cử hành lễ Cổ Phật Khất thực và Lễ Tạ ơn nhà chúa đã thành tựu công đức. Ngày 24 tháng 4, chúa Minh mời 10 đệ tử của Hòa thượng mở một đàn Sấm tụng Đà La ni để tạ ơn Long thiên Phật tổ. Hòa thượng Thạch Liêm ngồi trên chứng minh.
Các Giới đàn, pháp hội mọi việc thổ mộc, cung cấp khí cụ, trang hoàng đàn trường, phục dịch trước sau và trong khi làm lễ phần lớn đều do quân binh thực hiện. Nhà chúa trong một thời gian ngắn có thể huy động được rất nhiều nhân công, vật lực.
... Tức thì phê lệnh truyền quan quân các dinh chia nhau dựng cất liêu xá, hạn trong 3 ngày lạc thành, bàn ghế khí mãnh hạn hơn 10 ngày phải có đầy đủ. Rồi thì Vân trù (nhà bếp) Thiền đường, Vân thủy đường dựng lên ở phía tả; Thị liêu, Trai đường, Độc luật đường, Am chủ liêu dựng lên ở phía hữu; giữa làm một Giới đàn. Suốt sáng thâu đêm, chỉ trong 3, 4 ngày là xong. Ngoài ra khuân vác khí cụ, hàng ngày trên đường đông như kiến cỏ, hơn 2.000 Vân thủy giới tử ai lo việc nấy. Quốc sư dọn cơm trưa, xin treo chuông mõ làm hiệu lệnh, ta (Hòa thượng) chỉnh quy ước và đề những liễn đối...[15]
Vùng Thuận Quảng, dân các làng xã đều được chia thành hạng (hạng dân chịu thuế, sưu sai), mấy năm một lần duyệt tuyển để lấy người làm lính. Nhiều người nước ngoài đến Đàng Trong đã rất ấn tượng về việc tổ chức lực lượng vũ trang. Hòa thượng Thạch Liêm cũng vậy. Nhà sư đã viết về cung cách tuyển quân và chế độ quân dịch Đàng Trong:
Mỗi năm vào khoảng tháng ba, tháng tư, quân nhơn đi ra các làng, bắt dân từ 16 tuổi trở lên, những người thân thể cường tráng, đóng gông lại bằng một cái gông tre hình như cái thang nhưng hẹp hơn, để giải về phủ sung quân; vào quân đội rồi, mỗi người bắt chuyên học một nghề, kế phân phái đi theo các chiến thuyền để luyện tập; có chiến tranh đem theo đánh giặc, lúc vô sự theo vương phủ làm xâu; tuổi chưa đến 60, chẳng được về làng cùng cha mẹ vợ con đoàn tụ; hàng năm thân thích đem áo quần vật thực đến thăm mà thôi...[16]
Để xây dựng lực lượng vũ trang, Đàng Trong thi hành chế độ quân dịch suốt đời. Bộ phận binh lính ưu tú (Chính binh) được tuyển chọn và đào tạo chuyên môn để phục vụ nhà chúa cả đời. Họ được trả lương, cung cấp trang phục và có thể còn được chỗ ở cùng vợ trong doanh trại. [17]
Có thể thấy vai trò quan trọng của lực lượng vũ trang căn cứ vào cơ cấu bộ máy cai trị, Tam ty được thiết lập từ năm 1613, thời chúa Sãi Phúc Nguyên gồm: Ty Xá Sai (coi việc văn án từ tụng); Ty Tướng Thần lại (coi việc trưng thu tiền thóc, phát lương cho quân các đạo); Ty Lệnh Sử (coi việc tế tự, lễ tiết và chi cấp lương cho quân đội Chính dinh); Bên cạnh đó còn có thêm Ty Nội lệnh sử kiêm coi các thứ thuế ... là cơ quan dành riêng cho việc thương mại ...
Như vậy, trong Tam ty (ba cơ quan đầu não) có hai Ty mang trách nhiệm đối với quân binh (phát lương cho quân sĩ tại cấp trung ương và địa phương). Ngay từ đầu và sau này suốt thời mở cõi, quân đội Đàng Trong được tổ chức, biên chế, đãi ngộ theo chế độ quy định[18]. Thực sự đó là đội quân chuyên nghiệp tinh nhuệ, là vũ khí lợi hại bảo vệ chính quyền và mở mang lãnh thổ. Thật không sai khi nói rằng họ Nguyễn hoàn thành cơ nghiệp bằng sức mạnh của lực lượng vũ trang.
Tượng binh (voi chiến) rất mạnh. Vì rừng núi Đàng Trong có rất nhiều voi và tê giác. Riêng Tượng đội dưới quyền quản lý của quan Trấn thủ dinh Thanh Chiêm (Quảng Nam) đã gồm hàng trăm voi chiến. Đó là binh chủng vô cùng lợi hại. Hòa thượng đã được chúa Minh mời xem một cuộc thao diễn voi trận tại Võ trường Thuận Hóa:
Ngày 13 (tháng 4), quốc vương sai Nội giám đến thưa rằng: “Ngày mai, vương sẽ ra Diễn võ trường xem voi thao diễn, nửa tháng mới về. Muốn thỉnh lão Hòa thượng cùng đi, xem một lần cho biết”. Ta nhận lời cùng đi.
Đến ngày 15, Nội giám rước lên thuyền. Dòng nước lờ đờ, sao mai thưa thớt, sương sa sông vắng, gà gáy rừng sâu. Thuyền chèo quanh co chừng 10 dặm, nghe trong khói mù có tiếng ồn ào, nội giám bảo rằng: Đã đến nơi. Nhìn lên thấy người đi xem, đàn ông đàn bà đứng bao quanh 4, 5 dặm. Quân hầu nạt người tránh, dẫn đường đi trước. Vương lên đài ở trung ương, xưởng vương tượng gần một bên, chứa toàn những voi cao lớn. Tả hữu la liệt những đồn lính và xưởng tượng, cỏ rơm và mía để chất đầy đồng.
Lúc dàn trận, voi sắp từng hàng 10 con đứng ở phía tây, mỗi con trên lưng đặt một cỗ yên bằng gỗ sơn đỏ, hình như cái hộc. Ttrong hộc có ba người đứng, đầu đội hồng kim khôi, mình mặc áo nhung lục, tay cầm kim câu trường thương, một tên nài cầm câu liêm ngồi trên vai voi. Phía đông 500 quân cầm đao thương và đuốc châm lửa, xây mặt về phía voi đứng. Đằng sau đài đặt những bù nhìn bện rơm như hình quân lính.
Cờ lệnh trên đài phất lên. Ba quân múa đao thương, nhắm hàng voi xông tới. Hoả khí đốt lên, khói bay mù mịt, voi vẫn đứng yên. Bỗng chốc trống đồng đánh liên hồi, các quân phấn dõng xông vào đàn voi, bọn nài bổ câu liêm vào đầu, võ sĩ đâm vào đùi. Bầy voi chạy thẳng đến rượt đuổi. Quân lính lui tránh; mỗi con voi lấy vòi quấn một bù nhìn bằng rơm đem về. Thớt voi nào chạy hơi chậm, liền bị thương đâm búa bổ, chảy máu đứt da, đến nỗi có con quá mệt, phục quỵ không thể dậy nổi. Tan trận lấy đó làm hơn thua.[19]
Giới thiệu với Hòa thượng về việc săn và luyện voi, chúa Minh tỏ ra rất tự hào về sức mạnh của binh chủng này:
Vương thuật chuyện rằng: “Bản quốc có những tê ngưu và voi đi từng bầy trong núi. Muốn bắt voi sống, người ta đem hai con voi cái thuần đi dụ, voi cái kèm voi rừng cho người ta lấy dây lớn cột chân vào gốc cây, giam cho đói khát ít ngày, rồi người nài lần đến gần, cho ăn uống. Lâu dần quen, hai voi cái kèm voi mới về giao cho một viên quản tượng. Thường thường có 50 lính coi việc diễn tập. Mấy năm gần đây, những trận đánh với Đông kinh, Chiêm Thành, quân ta thắng phần lớn nhờ sức voi vậy. Thời tiên vương có một con voi ra xung phong hãm trận, chủ tướng bị địch giết bèn lấy vòi quấn thây chạy vào hang núi giấu kín; quay trở ra, nổi xung chạy vào trận địch, đánh phá tung hoành. Ba quân hùa theo, kết quả được toàn thắng. Sau lúc thâu quân, voi đến quỳ trước trướng, dẫn người đi tìm hài cốt chủ đem về chôn cất rồi bỏ ăn chết theo chủ. Đến nay mả nghĩa tượng đương còn”. Nhơn hỏi thăm việc diễn binh tập tượng ở Trung Quốc, ta trình bày tỉ mỉ phép diễn võ cho nghe và làm bài “Thao tượng hành”...[20]
Ngoài đánh trận ra voi còn phục vụ việc vận chuyển, du ngoạn. Chính quyền dùng voi vào việc hình pháp, để trừng phạt tù nhân phạm trọng tội. Tượng hình rất nặng nề dã man, khiến nhà sư phải động lòng:
Những lúc ra ao câu cá, thả thuyền hái sen, vương (chúa Minh) đều đón ta đi, mỗi người cưỡi một thớt tượng. Có lúc đổ cát vào bao, khiến tượng nhồi ném... Trong nước có Tượng hình, bắt tù trọng phạm giao cho voi quật, voi nhồi phạm nhân lên cao mấy trượng, rồi lấy ngà xóc đỡ, ngà xoi thủng gan ruột, phạm nhơn chết liền. Ta (Hòa thượng) khuyên nhà vua trừ bỏ hình phạt ấy.[21]
Đàng Trong rất mạnh trên mặt biển. Trong đó, Thanh Chiêm là căn cứ Thủy quân mạnh nhất trong ba căn cứ là Chính dinh tại Thuận Hóa, Quảng Nam và Trấn Biên. Ngay khi cập bến Đàng Trong, Hòa thượng đã cảm thấy sức mạnh của lực lượng Thủy quân nhà chúa:
Qua giờ thìn có hai chiến hạm của nhà vua sai Quốc cậu đem ra đón, hai phiên tăng cũng trở lại (nguyên người nhà vua sai sang Quảng Đông). Thi lễ xong, lập tức giục xuống thuyền, nói có Quốc cậu, đương kính chờ trên thuyền. Vài mươi thủy quân võng ta xuống, nổi trống đồng, họ hát chèo đi. Thuyền sơn son láng bóng soi mặt được, tả hữu đều 25 tay chèo, Thủy quân rất mạnh mẽ, cửa khoang thuyền chạm long vân, sơn đỏ, trên che đệm có đằng văn, dưới trải chiếu lác mịn màu xanh lục, lò đốt kì nam hương, hộp vàng bày cau trầu, có đủ các thứ gối tựa ống giổ ...[22]
Sau khi hoàn thành các Phật sự tại Thuận Hóa, Hòa thượng Thạch Liêm muốn trở về nước. Ngày 28 tháng 6, Hòa thượng và các học trò đi trên 8 chiếc Hồng thuyền (thuyền nhà chúa) và 8 chiếc Điền xá (thuyền cá) rời Thuận Hóa, chiều tối ra đến cửa biển. Trước đó, ngày 18, chúa đã đem các quan văn võ đi trước đến cửa bể. Chúa cho cất một nhà Thủy các trên biển để làm nơi tiễn đưa Hòa thượng. Ngày 30, Hòa thượng tới yết kiến rồi cùng chúa du lãm chùa Vĩnh Hoà núi Khê Phong. Ngày mồng 1 tháng 7 ngài từ biệt chúa lên thuyền đi Hội An. Đi ngang Ngũ Hành Sơn, ghé chơi chùa Tam Thai. Chiều hôm ấy thẳng đến Hội An. Về giao thông thủy Đàng Trong, Hòa thượng có nhận xét:
... Cửa biển là cửa ngõ của vương đô Thuận Hóa, để đi thông qua các phủ khác. Vì nước Đại Việt chỉ là một dải núi dọc theo mé biển, các đô ấp đều tựa núi day mặt ra biển, núi cao sông hiểm, cây rừng rậm rạp, nhiều tê tượng hùm beo, các phủ thuộc không có đường lối thông nhau, mỗi phủ đều do một cửa biển đi vào; muốn đi từ phủ này qua phủ khác tất do đường biển, thuyền đi biển thường khó đi gần bờ vì sóng lớn; gặp gió xuôi đi chừng một ngày, nếu ngược gió không chừng 10 ngày, nửa tháng mới có thể đi thông từ cửa này qua cửa khác. Tàu ngoại quốc thường vào khoảng tháng 5 chạy đến Hội An. Hội An thuộc phủ Thăng Hoa. Từ Thuận Hóa vào Hội An đường bộ tất do Ngãi Lãnh (đèo Hải Vân). Sách Dư ký bảo rằng: “Khoảng tháng 2 tháng 3, hoa ngãi nở, trôi ra biển, cá ăn hoa ấy hóa rồng”, tức là hoa ngãi núi này vậy. Núi cao nắng gắt, trèo qua rất khó, nên đi thuyền theo đường biển tiện hơn.[23]
Đây là hình ảnh đoàn thuyền đưa Hòa thượng từ kinh đô ra cửa biển:
... Thanh la khởi lệnh, mở neo buông thuyền... Đầu thuyền ngồi một vị quan, đuôi thuyền đứng một người cầm lại, giữa thuyền sáu mươi bốn quân nhân đứng chèo; thuyền cạy qua tả là qua tả, qua hữu là qua hữu, miệng hò lơ, chân dậm ván, đều răm rắp theo nhịp mõ chẳng chút đơn sai, mới nghe qua thực chẳng hiểu nhịp gì lạ vậy. Thuyền dài mà hẹp, như hình long chu, mũi cất cao, đuôi thuyền sơm đỏ, giữa không thấy để bếp nấu, thầm nghĩ, bao nhiêu người sẽ ăn uống vào đâu? Riêng ta đem theo đồ ăn và nước trà để dùng, quân lính đều ở trần trùng trục, dưới nắng cháy như thiêu, chỉ có trữ một vò nước lạnh, khát thì lấy gáo múc uống, bụng đói trống trơn mà sức chèo chẳng giảm, sự khó nhọc vẫn đáng thương thay... Thuyền ra đến sông lớn, sắp thành từng hàng, quan lính rán sức chèo đi mau như tên bắn ...[24]
Đường vào Hội An, cảnh tượng đoàn chiến thuyền đi như bay trong biển đêm thật ngoạn mục:
... Cai bá khởi 3 hồi trống lệnh, các thuyền đều lên chèo. Trong thuyền đèn lửa tắt hết. Cai bá đứng trước mũi thuyền, cầm một dây hoả mai ra hiệu; hoặc bát hoặc cạy, khi chậm khi mau, các thuyền đều ngó theo hỏa hiệu lái chèo, chẳng hề sai chậy. Thuyền ra khỏi cồn cát mé biển đậu lại, triệt hết bòng che mát, mọi thuyền đều để khoang trần. Chờ đến canh ba, trống đồng nổi lệnh, trăm thuyền chuyển động, ba đào húng dũng, vang dội núi gò. Chúng quân nỗ lực chèo, mái chèo chém sóng, nước mặn tỏa sáng ngời, xem trong biển sóng dậy chớp giăng, như mấy mươi con hỏa long đương múa nhảy trên gò núi biếc, an nguy thân thế chẳng biết đường nào, Chợp ngủ chừng nửa giờ, đã thấy phương đông sáng bạch. Khoác áo choàng ngồi dậy, thấy sóng yên nước lặng, té ra thuyền đã vào vũng...
... Xa trông cách bờ, cột buồm như rừng tên xúm xít, hỏi ra mới biết là đoàn thuyền chở lương, đậu chờ gió tại cửa Hội An. Tám thuyền đều đến, tạm đình tại cửa biển. Bãi cát phẳng như tấm gương, xa trông mút mắt. Trên bãi đầy vỏ sò ốc, cảnh trí rất xinh. Lại khiến giăng bong lên để nằm ngồi nghĩ ngợi, mới biết Hồng thuyền rất tiện lợi vô cùng, có thể lấy sức chèo lướt sóng, dầu sóng dốc cũng phăng tới rất êm.[25]
Sự phục vụ của quân binh nhà chúa cực kỳ chu đáo, đến nỗi Hòa thượng phải cảm động, không khỏi thở than khi chứng kiến sự nhọc nhằn vất vả và tinh thần kỉ luật của quân binh:
Chuyển thuyền ra mũi cát, một chốc đã đến chỗ thuyền lương đậu neo lại. Hai bên bờ, nhà cửa đông đúc, người đi đường xôn xao, kẻ gánh người gồng, người ta đã đi chợ sáng. Một chiếc Hồng thuyền đậu trước ở đó, quan trấn thủ Hội An đến yết kiến, cung đốn bữa cơm sáng rất tươm tất. Mới biết dọc đường có người lo cung đốn cơm nước đúng theo ngày giờ đã quy định, chẳng chút sai chậy. Chúng ta khỏi lo thiếu đồ nấu nướng, nhưng thương hại quân lính khó nhọc, cũng nhân đó thấy lệnh vua cứng rắn như sắt, chẳng ai dám đơn sai. Quay lại bảo kẻ tuỳ tùng rằng: “Đức tu mỏng kém, làm sao đương nổi cúng dưỡng thế ấy cho khỏi chiết phước”...
... Cơm nước xong, trống đồng lại nổi lệnh. Các quân nhân đương thổi cơm trên bờ, có kẻ đương ăn, cũng có kẻ đương nấu hoặc đương vo gạo, đều dẹp lại, vội vàng đến mở dây thuyền. Mõ đánh giữa dòng, các thuyền khi đi hàng dọc, khi sắp hàng ngang, khi đi thẳng một hàng, khi chia thành hai dãy; ba quân miệng hò khoan, chân dậm ván, thảy đều đúng nhịp, rập ràng...[26]
Điều vô cùng thú vị là Đàng Trong cuối thế kỷ 17, trong ghi chép của Hòa thượng chúng ta nhiều lần thấy trống đồng, biểu tượng xưa của văn hóa Lạc Việt Đông Sơn[27]. Trên chiến thuyền: trống đồng nổi lệnh... đoàn chiến thuyền xuất phát. Trong cuộc thao diễn voi trận: Hoả khí đốt lên, khói bay mù mịt, voi vẫn đứng yên... bỗng chốc trống đồng đánh liên hồi... tức thìquân sĩ và voi trận đều xông lên... Trống đồng được sử dụng làm hiệu lệnh trong chiến trận và các hoạt động quân sự. Trống đồng là biểu tượng sức mạnh quân sự Đàng Trong.
Hội An là thương cảng lớn, Hòa thượng viết về nó:
Hội An là một mã đầu lớn, nơi tập họp các khách hàng các nước; thẳng bờ sông, một con đường dài 3,4 dặm, gọi là Đại Đường Cù, hai bên đường hàng phố ở liền nhau khít rịt, chủ phố thảy đều là người Phúc Kiến, vẫn ăn mặc theo lối tiền triều (nhà Minh). Phần đông phụ nữ coi việc mua bán. Những khách trú ở đây thường hay cưới vợ bản xứ cho tiện việc thương mãi. Cuối đường là cầu Nhật Bản, tức Cẩm Phố, cách bờ bên kia tức Trà Nhiêu, nơi đình bạc của các tàu ngoại quốc. Nhân dân đông đúc, cá tôm rau quả tập hợp mua bán suốt ngày. Thuốc Bắc hay các món hàng khác, tìm mua ở Thuận Hóa không có thì người ta vào mua ở đây. Đại ước Hội An đông nam bắc ba mặt gần biển, chỉ có phía tây đường núi liên tiếp, thông Tây Việt và Đông kinh. Vì thế cách phía tây chừng 10 dặm có đặt một nha trấn thổ như vương phủ để phòng ngự lân bang.[28]
Vừa đến Hội An khách đã nhìn thấy: Xa trông cách bờ, cột buồm như rừng tên xúm xít, hỏi ra mới biết là đoàn thuyền chở lương, đậu chờ gió tại cửa Hội An... Đây có lẽ là đoàn thuyền chở lương thực từ nam ra. Như Hòa thượng đã nhận xét: Trong nước dân rất khổ, đất ruộng ít ỏi, lúa chẳng đủ ăn. Dân thổ trước một dải Thuận Hóa Hội An đều sống nhờ vào lúa của các hạt khác[29]. Miền Trung đất hẹp không mấy màu mỡ, thời kỳ đầu Thuận Hóa phải ăn gạo từ Quảng Nam, vùng đồng bằng rộng rãi màu mỡ hơn bắc Trung bộ khắc nghiệt, cằn cỗi. Đến thời chúa Minh, họ Nguyễn khai phá đến Nam Bộ, ngoài thuyền chở lương của chính quyền, còn có thuyền của các thương nhân buôn bán thóc gạo từ châu thổ Cửu Long ra Trung bộ...
Trên đây chỉ là một phần hình ảnh liên quan đến cảng biển, giao thông và lực lượng quân binh của chính quyền Đàng Trong cuối thế kỷ 17.
Đương nhiên, sách không phải chỉ có chừng ấy. Hòa thượng được quốc vương mời đến Đàng Trong với sứ mệnh tôn giáo, cũng là một chuyến du hành chẳng phải tầm thường. Với thói quen thích ghi chép của giới trí thức Trung Hoa, Hòa thượng ghi chép khá nhiều: từ đặc điểm địa lý, khí hậu địa phương đến tính nết phong tục của dân cư, về tình trạng Phật giáo và tín đồ, về chùa chiền miếu mạo, rồi quang cảnh sông ngòi bờ biển, rừng núi, phố xá, chợ búa, nhà cửa dinh thự... Những trang tường thuật lại các Phật sự mà ngài đã thực hiện, những chuyến du hành trên bộ, trên biển được nhà chúa và quân binh phục vụ tận tình... rồi còn những văn thư, ghi chép, các bản điều trần sau khi tiếp xúc, đàm đạo với bậc quân vương (chúa), thư từ qua lại giảng giải về Phật pháp, tranh luận, xướng hoạ thơ văn cùng giới trí thức, quan lại, quý tộc. Cuối cùng, không thể thiếu là nhiều bài thơ tức cảnh khi du ngoạn... Thật là một tài liệu quý giá để tìm hiểu mọi mặt xã hội, con người Đàng Trong thời chúa Minh Phúc Chu.
Hình ảnh của chúa Minh. Đây là ấn tượng về chúa trong mắt nhà sư Trung Hoa tại cuộc gặp mặt đầu tiên:
... võng lọng từ cửa giữa đi thẳng vào đền. Vua đứng đón ở thềm phía đông, thoại mới gặp nhau, như quen biết sẵn từ trước; dắt vào trong cung, có bài trí tượng Phật, phướn tàn chuông mõ, chẳng khác cảnh chùa. Ta bảo rằng: “Nhà vua thực khá gọi chẳng quên nghiệp cũ vậy”[30]. Vương ngó ta mà cười. Ta lễ Phật, nhà vua tự tay đánh khánh đốt hương ... Trộm ngắm ông vua ngoại quốc, xuân thu chưa mấy mà phú tính thông minh, độ lượng khoan hoà, dung mạo đoan chính...[31]
Chúa Minh còn rất trẻ, chỉ mới qua tuổi 20, tinh thần hăng hái, đầy nhiệt tâm với Phật giáo. Đối với Hòa thượng, chúa luôn giữ lễ thầy trò. Trong các pháp đàn Phật sự, chúa xử sự như một Phật tử bình thường, không chút tỏ ra cao sang xa cách:
... ngày ấy (24 tháng 4) quốc vương mở đàn cúng dưỡng... Mỗi lúc tiến đàn, quốc vương ắt đứng ngoài sửa lễ, đứng ngồi xen lẫn với tăng chúng không chút giải đãi. Lúc rảnh, cùng nhà vua bàn luận cổ kim trị đạo, chỉ dẫn mọi đường lối khoan hình chuộng dức, yêu quân hậu dân, thông thương giảm thuế... nhà vua đều vui vẻ tin nghe, giận mình tuổi trẻ kiến văn không được rộng rãi ...[32]
Chúa Minh, rất tự nhiên, cầm trống chầu trong vở tuồng diễn tại tiệc chay của công chúa đãi nhà sư Trung Hoa:
... trong tiệc có diễn kịch, quốc vương dắt bọn tiểu hầu (nữ ca vũ) đến; dọn lại bàn tiệc, nhường bọn tiểu hầu của vương hát trước. Trong cuộc hát, chủ nhơn đặt một cái trống lớn (trống chầu) bên sân khấu, thỉnh thoảng điểm 2, 3 tiếng trống, cũng một ý nghĩa như gõ nhịp thủa xưa vậy. Ngày ấy vương rất cao hứng, tự đánh trống điểm nhịp cho bọn hát; thanh diệu lạ lùng, bộ tịch đường lối cũng khác, người trong tiệc ngồi xem rất thú vị...[33]
Phong cách bình dân của ông chúa trẻ tuổi khiến Hòa thượng đôi khi không khỏi kinh ngạc:
... Trong lúc nói chuyện, bỗng một viên Nội giám từ ngoài bước vào nói vài câu tiếng Việt, Vương vội chạy ra. Nghe ngoài điện đánh ba hồi trống. Hồi lâu, Vương trở vào, thở hổn hển. Ta thấy lạ hỏi thăm. Vương nói: “Vừa rồi, trại quân bị lửa cháy, sảng sốt chạy qua cứu chữa, xin chịu thất lễ, không được bồi tiếp lão tăng”. Ta hỏi: “Vương tự mình qua cứu?” - “Thưa phải, chẳng chịu chờ xa giá, ta đến, quan quân mới tề tựu cứu chữa”. Ta nói rằng: “Sao, nói gì lạ thế? Đứa con nghìn vàng, chẳng ngồi cheo leo nơi thềm cao, huống chi ông vua thiên thặng, trên quan hệ đối với Tôn miếu Xã tắc, dưới quan hệ đối với an ninh của trăm họ muôn dân, há nên khinh thân vào nơi nước sôi lửa cháy. Vẫn biết đức trạch của nhà vua thấm khắp trăm họ, nhưng biết đâu không có cuồng phu oán tốt dòm hành; hoặc cố ý phóng hoả để dụ vương ra, rồi thưa hư phạm giá, há chẳng nguy thay? Bởi thế bậc nhân quân đi ra có đường kỉnh, đi vào có đường tất (đường cấm) không phải là bày đặt vô vị đâu”. Vương nghe nói thất sắc, bảo rằng: “Phải, nhưng biết biết thế nào, trong nước toàn nhà tranh, năm nào cũng có hỏa hoạn, mỗi lần cháy lan mấy dặm, nếu chẳng cứu, nhà dân sẽ ra tro hết”[34]
Biết vậy, Hòa thượng bèn chỉ cho cách dùng lệnh tiễn để triệu tập quan quân khi có biến, chúa xin nghe, lại xin Hòa thượng ghi lại những ý kiến đã đàm đạo, khắc yết lên triều môn mà thực hành...
Chúa Minh mộ đạo Phật, tin lời Hòa thượng nói rằng kiếp trước từng làm tăng nhân Trung Hoa, đã tâm sự với thầy:
“... Ta cũng ở ngôi vài ba năm nữa, chờ Thế tử trưởng thành, có thể trông coi việc nước, chừng ấy sẽ chọn một người phụ bật hiền lương, rồi truyền ngôi cho Thế tử, ta sẽ cạo đầu làm sãi vậy. Việc chung cục của ta, đã mong chờ Lão Hòa thượng chỉ rõ, biết rằng kiếp trước là tăng nhơn nước Đại Minh, ngẫu nhiên lạc bước đến đây, há khứng trọn đời đắm đuối trong vòng thanh sắc phú quý mà quên nguồn gốc của mình hay sao”[35]
Chúa kể niềm nhớ nhung nước cũ. Đó cũng là tâm thức chung của cộng đồng lưu dân Việt, dù xa cách cả trăm năm vẫn khôn nguôi nhớ về cội nguồn:
... trong lúc nói chuyện, quốc vương thường tỏ ý tưởng nhớ Đông kinh (Bắc Kỳ), nói Đông kinh là đất nước của bản quốc, tiên đế từng làm rể An Nam, được phong phiên thần ở xứ này, dần dần trong xứ trở nên cường thịnh; từ ấy cát cứ lập thành một nước, đổi hiệu là Đại Việt. Nhà vua thường tưởng nhớ Đông kinh...[36]
Thoát ly khỏi sự kiểm soát của Đàng Ngoài, đồng thời là quá trình Đàng Trong tiếp nhận văn hóa Chiêm Thành bản địa, ý thức hệ chính thống Nho giáo không còn được coi trọng trở nên mờ nhạt, xã hội càng đậm màu Đông Nam Á hơn. Hòa thượng đã quan sát và nhận xét:
Nước Đại Việt, phong thổ khí hậu, đại ước khí âm thịnh, khí dương suy. Nghiệm chứng: muôn vật phát sinh về thu đông, làm việc dùng ban đêm, con trai thông minh không bằng con gái.[37]
Chợ hàng buôn bán đều là đàn bà con gái, không phân biệt “nam ngoại nữ nội” chi hết, phong tục tiết nghiã hầu như chẳng còn...[38]
Hòa thượng, trên lập trường Nho giáo đã chê trách cái “phong hóa phi Nho” của Đàng Trong và cho rằng cần phải giáo hóa, sửa đổi. Đặc biệt là cái nhìn nghiêm khắc đối với cách sống “ngoài vòng lễ giáo” hiển hiện khắp nơi của giới phụ nữ Đàng Trong:
Âm dương là lẽ chính trời đất, vợ chồng là bước đầu của nhân luân. Kinh Dich dạy phò dương át âm; kinh Lễ định phu phụ hôn nhân cho nam đứng trước nữ; nam lo việc ngoài nữ lo việc trong; chồng làm giềng mối cho vợ, vợ phải kính thuận đối với chồng. Ấy chẳng những chia âm dương tôn ty có định vị, cốt yếu muốn nghiêm phòng khuê khổn, khiến chẳng đến nỗi phá lề vượt lối, sinh tệ trong bộc trên dâu. Phong tục nước Đại Việt lại trái hẳn, phụ nữ muốn đi đâu tuỳ ý, tự do qua lại mua bán, cha mẹ chồng chẳng lấy thế làm xấu hổ hiềm nghi. Bởi thế tặng lý gieo đào, chỗ nào cũng có, phong tục quá đỗi tệ. Tiếc chẳng có thánh nhơn ra đời để dạy dân biến đổi tệ phong ...[39] Xem kỹ, dân chẳng phải ngu ngoan, đến nổi không giáo hóa được; chỉ vì người trên không biết thi hành chính sách giáo dục mà thôi. Nếu có vị vua thánh biết dùng kẻ hiếu để chăn dân, ngăn cấm thói xấu nết tà, dạy cho hiếu đễ trung tín, lễ nghĩa liêm sỉ, khiến dân ăn ở đều do theo đường chính nẻo ngay, thì mười năm sinh tụ, mười năm dạy dỗ học hành, làm sao lậu tục mán mường, chẳng trở nên hoa phong lạc thổ...[40] ... đã có Nho giáo duy trì thế đạo, lại có Phật giáo để khai hoá nhân tâm, như vậy con người mới dễ tiến tới bậc đức hạnh...[41]
Tuy nhiên một nhà truyền giáo khác, linh mục Công giáo Cristophoro Borri, người Ý, từng sống tại Đàng Trong từ năm 1618 đến 1622 thời chúa Sãi Phúc Nguyên, lại rất ngưỡng mộ phong thái của phụ nữ Đàng Trong: ... tươi vui mà lúc nào cũng đoan chính, dịu hiền hơn bất cứ dân tộc nào khác ở Đông phương... Đón tiếp khách khứa thì nồng hậu, khoáng đạt, thoải mái, thong thả và uy nghi, quần áo kín đáo nhất vùng Á Đông.[42]
Sự khác biệt trong cái nhìn, cách nghĩ của hai nhà truyền giáo từ hai phương trời Tây, Đông về cùng một đối tượng cho người đọc một cảm giác thú vị và càng thấm thía hơn về sự đa dạng văn hóa.
Thay lời kết
Nhà nước phong kiến Đại Việt vượt qua thời thịnh đạt nhất ở thế kỷ 15, thì bước vào cuộc khủng hoảng dài nhất trong lịch sử phong kiến. Vương triều Lê đã mất thực quyền, chỉ còn là một biểu tượng. Các thế lực phong kiến phân vùng cát cứ, giằng co suốt ba thế kỷ 16, 17, 18.
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm với nhãn quan sáng suốt đã gợi ý cho mỗi một thế lực khu vực địa lý và giới hạn chính trị để họ có thể tồn tại. Sự sắp xếp của ông hầu như được tuân thủ suốt thời phân tranh. Các thế lực họ Mạc, họ Trịnh, họ Nguyễn Đàng Trong (sau này, nửa cuối thế kỷ 18, còn thêm họ Nguyễn Tây Sơn) đã quản lý lãnh thổ theo vùng miền và thời kỳ. Tất cả các chính quyền đều có công lao và đã đạt được những thành tựu nhất định trong tiến trình phát triển của dân tộc Việt.
Nhưng thành công ngoạn mục nhất vẫn thuộc về họ Nguyễn Đàng Trong. Trong vòng hai thế kỷ rưỡi, các chúa Nguyễn đưa lưu dân Việt tiến về phương Nam, chẳng những đã tự bảo toàn được lực lượng của mình mà còn lớn mạnh, đủ sức vượt qua khủng hoảng, hoàn thành cuộc di dân mở đất vĩ đại và lâu dài nhất trong lịch sử Việt Nam, trở thành lực lượng cuối cùng thống nhất đất nước vào đầu thế kỷ 19.
Một nước Việt Nam mới, gần như lớn gấp đôi cả về cả về kích cỡ lẫn nguồn nhân lực. Đàng Trong hội nhập quốc tế mạnh mẽ chưa từng thấy trong thời phong kiến. Theo bờ biển Đông, Đàng Trong nối vùng đất phía Bắc cổ xưa xuống tới mũi Cà Mau tận cùng Nam Bộ. Chữ S ấy là hình hài cuối cùng của nước Việt Nam.
Họ Nguyễn Đàng Trong là lực lượng chính trị thực tiễn, năng động và khai phóng nhất. Cho nên họ cũng chính là lực lượng chính trị thành công nhất của thời đại đầy biến động ấy.
Hà Nội, tháng 7 năm 2011
* Viện Nghiên cứu Tôn giáo.
[1] Đại Nam thực lục tiền biên, Tập 1, NXB. Sử học, H, 1962., tr. 78.
[2] Thời Lê (và trước đó nữa), Đại Việt hầu như không tham gia vào ngoại thương khu vực. Trước năm 1600, việc giao thương buôn bán tại Thuận Quảng diễn ra trong dân, chính quyền không mấy quan tâm. Tình hình chỉ thay đổi khi Nguyễn Hoàng bỏ triều đình Lê - Trịnh về Nam quyết định xây cơ nghiệp riêng cho họ Nguyễn.
[3] Các thị cảng lớn được biết suốt thời mở cõi phương Nam là Phú Xuân – Thanh Hà (Thừa Thiên Huế), Hội An (Quảng Nam), Nước Mặn (Bình Định), Vũng Lấm (Phú Yên), Gia Định (Sài Gòn), Cù Lao Phố (Đồng Nai), Mỹ Tho, Hà Tiên...
[4] Hội An là thương cảng tấp nập, phồn vinh nhất: thuyền bè các nước Tây phương, Trung Hoa, Ma Cao, Nhật Bản, Manila... thường xuyên đến buôn bán suốt 2 thế kỷ 17, 18.
Lê Quý Đôn đã ghi trong Phủ Biên tạp lục: Đại phàm những thứ hoá vật được sản xuất từ các phủ Thăng Hoa, Điện Bàn, Qui Nhân, Quảng Ngãi, Bình Khang cùng dinh sở Nha Trang, chỗ thì người ta chuyên chở bằng thuyền theo đường thủy, hay chở bằng người thồ theo đường bộ, đều đổ xô dồn về phố cảng Hội An cả (Phủ Biên tạp lục, tập II, tr 72).
[5] Tư liệu cho biết đến giữa thế kỷ 16 (khi chính quyền còn chưa chú ý tới thương nghiệp), việc giao thương giữa Đàng Trong và Nhật Bản còn chưa đáng kể, chỉ đến đầu thế kỷ 17, việc giao thương mới phát triển mạnh. Chúa Nguyễn Hoàng bắt đầu việc buôn bán với nước Nhật từ năm 1601. Chúa Phúc Nguyên cho phép người Nhật, người Hoa lập phố Nhật và phố Khách tại Hội An để buôn bán và cấp đất cho người Bồ mở Thương điếm tại Đà Nẵng. Ông còn cho tổ chức hội chợ quốc tế hàng năm ở cảng thị Hội An, nhờ thế đã thu được lợi nhuận rất lớn từ thuế hàng hoá và thuế hải khẩu. Đặc biệt coi trọng Nhật Bản, chúa Phúc Nguyên còn gả con gái mình cho một thương nhân Nhật Bản ở Nagasaki.
[6] Đại Nam thực lục tiền biên, Tập 1, NXB. Sử học, H, 1962, tr. 48.
Sách Đại Nam thực lục tiền biên còn cho biết vàng khai thác đươc từ các nguồn ở Thuận Hóa, Quảng Nam, bạc thu được ở Quảng Ngãi, sắt ở châu Bố Chính, các đồ kim loại chế tác như dây thau, dây thép, vàng dát đều do các kho của Nhà đồ (Đồ gia) thu trữ. Ngoài ra còn có các loại sản vật khác như ngà voi, sừng tê, quế, trầm hương, yến sào, dầu hương, mật ong sáp ong, chiếu mây, sơn dầu, nhựa trám...
[7] Miền Trung có rất nhiều sông, từ núi đổ ra biển tạo thành nhiều cửa biển. Giáo sĩ Công giáo dòng Tên Cristophoro Borri, người có mặt tại Đàng Trong từ năm 1618 đến 1622 đã nhận xét về điều kiện tự nhiên thuận lợi khác thường cho giao thông đường thủy: ... còn về cảng biển thì thật lạ lùng, chỉ trong khoảng hơn 100 dặm một chút mà người ta đếm được hơn 60 cảng, tất cả đều rất thuận tiện để cập bến và lên đất liền. Là vì ven bờ có rất nhiều nhánh biển lớn. Hải cảng đẹp nhất, là nơi tất cả người ngoại quốc đều tới và cũng là nơi có hội chợ danh tiếng chính là hải cảng thuộc tỉnh Quảng Nam (Hội An) ... Xem Cristophoro Borri. Xứ Đàng Trong năm 1621., NXB. TP Hồ Chí Minh, 1998.
[8] Họ Nguyễn trước cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn (1627 - 1672) được cho là yếu thế hơn nhiều so với họ Trịnh Đàng Ngoài, cả về diện tích, dân số lẫn lực lượng vũ trang. Riêng về quân số thì chỉ bằng một phần tư họ Trịnh. Vậy mà trong cuộc phân tranh dài 45 năm lực lượng vũ trang, các chúa Nguyễn đã đẩy lui 7 lần tấn công của Đàng Ngoài, dẫn đến cuộc đình chiến dài hơn 100 năm sau đó, thời gian để họ Nguyễn có thể rảnh tay tiến về Nam.
[9] Hòa thượng Thạch Liêm (1633 - 1704) dòng Tào Động, hiệu là Đại Sán hay Hán Ông, người Giang Tây, Trụ trì chùa Trường Thọ Quảng Đông. Học vấn uyên bác, thông thạo Tam giáo (Nho, Phật, Lão), lại giỏi cả văn chương, chính trị, thiên văn, địa lý, dịch số; các môn thư pháp, hội hoạ đều tinh xảo.
[10] Thích Đại Sán, Hải ngoại kỷ sự, Viện Đại học Huế, Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam., 1963., tr. 34.
[11] Cristophoro Borri, Xứ Đàng Trong năm 1621, NXB. TP Hồ Chí Minh, 1998, tr. 83.
[12] Nguyên năm 1658, chúa Hiền đem quân đánh kinh đô U Đong nước Chân Lạp, bắt được một thợ đúc súng người Bồ Đào Nha lai Ấn Độ tên là Joao Cruz, theo đạo Công giáo. Ông giỏi nghề đúc súng, đúc được súng đại bác và các loại khí giới tối tân của châu Âu thời bấy giờ. Ông được đưa về Huế, chuyên lo việc đúc súng đại bác (thần công) cho nhà chúa. Lập ra phường Thợ Đúc, Joao Cruz được chúa Hiền hết sức trọng đãi: được phong chức vụ tước hiệu, hưởng bổng lộc cao, được cấp lính hầu phục dịch, ra ngoài được hưởng nghi vệ ngang với quan đại thần. Ông lấy vợ người Việt, qua đời năm 1682. Con ông được chúa Hiền cho thừa kế cha trông coi lò đúc súng. Súng đại bác (Thần công) đúc tại phường Đúc Huế, do Joao Cruz chỉ đạo hiện còn trưng bày ở Bộ Quốc phòng Thái Lan, có khắc hàng chữ Bồ: “Por eerei ecres de Cochinchina C`hampa e Camoia ioas Da esen 1670” Nghĩa là: Dành cho vua chúa Đàng Trong, Chiêm Thành và Chân Lạp, Joao Da Cruz chế tạo năm 1670. (Xem Cao Thế Dung, Việt Nam Công giáo sử tân biên, Q.I, Thời khai nguyên và truyền giáo. Cơ sở Truyền thông Dân Chúa xuất bản 2002).
[13] Hải ngoại kỷ sự, sđ, tr. 41.
[14] Hải ngoại kỷ sự, sđ, tr. 154.
[15] Hải ngoại kỷ sự, sđ, tr. 72,73.
[16] Hải ngoại kỷ sự, sđ, tr. 43.
[17] Lính Chính binh được hưởng lương và người thân nhân họ có thể được hưởng sự chu cấp nào đó của nhà chúa, nhưng dân chúng cũng không mấy ưa thích chế độ ấy và tìm cách trốn tránh. Như Hòa thượng Thạch Liêm đã ghi lại: “Chỉ có những người có học hành, người làm tăng, người nhỏ yếu, già cả, ốm đau, tàn tật mới khỏi sai dịch mà thôi. Những người bị tuyển lính phải làm quân nhân suốt đời... Vì cớ ấy, những dân còn lại ở nhà, toàn gầy yếu tàn tật, chẳng có mấy người mạnh mẽ. Cha mẹ sợ con phải đi lính, vừa lớn lên tức cho vào chùa làm sãi, hầu mong trốn việc quan; do đó bọn khoác áo nhà chùa rất đông, Phật pháp trở nên hỗn loạn ...”
[18]Trong cuốn Xứ Đàng Trong năm 1621, Linh mục người Ý dòng Tên Cristophoro Borri viết về binh lính trên các thuyền chiến thời chúa Sãi Phúc Nguyên: “Đàng Trong không có lệ dùng phạm nhân hay người bị án khổ sai để chèo thuyền (như ở châu Âu)... khi cần người... họ ngấm ngầm phái đội trưởng và uỷ viên vào lúc không ngờ rảo khắp xứ đem lệnh chúa bắt lập tức tất cả những trai tráng có sức cầm chèo và dẫn tới các thuyền, không đếm xỉa tới con nhà sang hay có thế giá, bởi vì không ai được miễn... họ (lính chèo thuyền) được đối xử tốt trong thuyền cũng như bất cứ nơi nào khác và được trả lương cao. Hơn nữa vợ con họ và cả gia quyến họ đều được chúa cung cấp hết những gì cần, tuỳ theo cấp bậc, thanh thế trong suốt thời gian chồng họ vắng nhà. Và những người này không phải chỉ được dùng để chèo mà còn chiến đấu khi cần và họ chiến đấu rất anh dũng ... ”, tr. 85, 86.
[19] Hải ngoại kỷ sự, sđd, tr. 92.
[20] Hải ngoại kỷ sự, sđd, tr. 92, 93.
[21] Hải ngoại kỷ sự, sđd, tr. 99.
[22] Hải ngoại kỷ sự, sđd, tr. 31.
[23] Hải ngoại kỷ sự, sđd, tr. 132.
[24] Hải ngoại kỷ sự, sđd, tr. 132, 133.
[25] Hải ngoại kỷ sự, sđd, tr. 145, 146.
[26] Hải ngoại kỷ sự, sđd, tr. 146.
[27] Trống đồng là biểu tượng của văn hóa Đông Sơn Viêt cổ, theo các nhà nghiên cứu: Trống đồng gắn liền với các Lạc tướng, là biểu tượng của thế lực, sự giàu có, quyền uy của tầng lớp cừ soái, lãnh tụ cộng đồng Việt cổ... sách Minh Sử có ghi lại lời của một tù trưởng người Man: “trống đồng tiếng vang dội hùng tráng, loại tốt nhất có thể đổi 1.000 trâu, loại kém hơn có thể đổi 700 – 800 trâu. Được 2 - 3 trống đồng lớn thì có thể tiếm hiệu xưng Vương. Đánh trồng đồng trên núi, tất cả người Man đều tập trung đến...”. Các vương triều Lý - Trần thời Đại Việt thờ thần Đồng cổ (thần trống đồng) như vị thần bảo vệ vương triều với hội thề long trọng hàng năm tại kinh đô Thăng Long. Xem: Nguyễn Duy Hinh. Trống đồng quốc bảo Việt Nam, NXB. Khoa học Xã hội, H, 2001, tr. 16 – 29.
[28] Hải ngoại kỷ sự, sđd, tr. 154.
[29] Hải ngoại kỷ sự, sđd, tr. 105.
[30] Câu này ý nói quốc vương với Đại Sán nguyên kiếp trước tu với nhau một chỗ ở Trung Quốc. Nay đầu sanh làm vua Việt Nam, vẫn thờ Phật tụng kinh, chẳng quên việc cũ.
[31] Hải ngoại kỷ sự, sđd, tr. 35.
[32] Hải ngoại kỷ sự, sđd, tr. 98.
[33] Hải ngoại kỷ sự, sđd, tr. 129.
[34] Hải ngoại kỷ sự, sđd, tr. 98, 99.
[35] Hải ngoại kỷ sự, sđd, tr. 135.
[36] Hải ngoại kỷ sự, sđd, tr. 40.
[37] Hải ngoại kỷ sự, sđd, tr. 49.
[38] Hải ngoại kỷ sự, sđd, tr. 105.
[39] Hải ngoại kỷ sự, sđd, tr. 116.
[40] Hải ngoại kỷ sự, sđd, tr. 106.
[41] Hải ngoại kỷ sự, sđd, tr. 124.
[42] Cao Thế Dung, Việt Nam Công giáo sử tân biên, Q.I, Thời khai nguyên và truyền giáo, Cơ sở Truyền thông Dân Chúa xuất bản 2002, tr. 369
Bình luận bài viết