Thông tin

DẤU ẤN MẬT GIÁO TRONG BỐI CẢNH

PHẬT GIÁO THỜI LÝ (1010 – 1225)

 

NNC. TRẦN ĐÌNH SƠN

 

Đạo Phật truyền đến nước ta từ đầu Công Nguyên, đến nay đã trải qua hơn 2000 năm tồn tại, phát triển mạnh mẽ trong lòng dân tộc. Tùy theo yêu cầu của từng giai đoạn lịch sử mà Phật Giáo để lại nhiều dấu ấn khác nhau.

Khoảng thế kỷ thứ 6, thiền sư Tì ni đa lưu chi (Vinitaruci) sau khi đắc pháp với đệ Tam tổ Tăng Xán (Trung Quốc) liền sang Giao Châu ở tại chùa Pháp Vân, làng Cổ Châu, Long Biên hoằng pháp. Sư có dịch bản kinh Tinh xá đầu voi (Tượng Đầu tinh xá kinh - ĐTK.466) và kinh Đại thừa phương quảng tổng trì (Đại phương  quảng tổng trì kinh - ĐTK 275), để phổ biến giáo hóa đồ chúng. Từ căn bản đó dòng thiền Pháp Vân mang đậm yếu tố Mật Giáo, tạo thành truyền thống  Thiền - Mật song tu rất đặc sắc. Pháp môn này phù hợp với tín ngưỡng bản địa và đáp ứng ước vọng của dân tộc Việt trong giai đoạn bị phong kiến phương Bắc đô hộ.

Các cao tăng đạt đạo đã đóng góp công đức to lớn trong việc giành lại chủ quyền, xây dựng đất nước dưới các triều đại chính thống đầu tiên Đinh (968 - 979 ), tiền Lê (980 - 1009), đặc biệt là triều Lý (1010 - 1225), cường thịnh hơn 200 năm. Tiêu biểu như:

Thiền sư Ma Ha Ma Da, đời thứ X thiền phái Tì ni đa lưu chi (Pháp Vân), chùa Quan Ái, làng Đào Gia, xã Cổ Miệt (Hải Dương), tổ tiên là người dân tộc Chămpa. Sư học thông ngôn ngữ Phạn và Hán. Năm 24 tuổi, sư nối nghiệp cha tiếp tục trụ trì ngôi chùa cũ, thường diễn tập kinh bối. Sau đó sư bị mù mắt, hối hận định gieo mình xuống vực sâu. Duyên may sư gặp thiền sư Viễn Biệt chùa Đông Lâm khai thị nên tỉnh ngộ, bèn tìm đến chùa Cổ Sơn thọ giáo với đại sư Pháp Thuận. Từ đó sư chuyên tâm lễ bái sám hối và trì tụng Đại bi tâm chú (tức Thiên thủ thiên nhãn Quán thế âm bồ tát quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà la ni) trải qua 3 năm chí thành, sư được cảm ứng nên mắt sáng lại và lòng càng thanh tịnh.

Năm Thuận Thiên thứ 5 (1014), sư dời về ở núi Đại Vân tại Trường An nỗ lực tu tập đạt được Tổng trì tam muội và các pháp thần thông. Sư thường trì chú chữa bệnh cho nhân dân để đưa họ quy y Phật Pháp .

Năm Thiên Thành thứ 2 (1029), triều vua Lý Thái Tông, quan Đô úy Nguyễn Quang Lị thỉnh sư về trú trì chùa Khai Thiên, phủ Thái Bình. Được 6 năm, sư xin từ chức trở về Hoan Châu (Nghệ An) sau đó không rõ sư tịch năm nào .

Thiền sư Vạn Hạnh( ? – 1025 ), đời thứ XII thiền phái Tì ni đa lưu chi (Pháp Vân), người thôn Cổ Pháp, họ Nguyễn, gia đình nhiều đời tín ngưỡng Phật pháp. Năm 21 tuổi xuất gia, sư thờ Thiền Ông chùa Lục Tổ làm thầy, chuyên cần hành thiền và tu tập Pháp môn Tổng trì tam ma địa (tức Đà la ni tam muội). Theo Đại trí độ luận giải thích: Đà la ni tam muội là vì được sức của tam muội đó thì các Đà la ni văn và trì đều tự nhiên mà được. Chứng được Tam muội ngôn ngữ thì có thể phân biệt hết thảy ngôn ngữ văn tự của tất cả các pháp, giảng thuyêt cho chúng sinh không vướng mắc trở ngại.

Thời đó, sư nói ra lời nào thiên hạ đều cho là phù sấm. Vua Lê Đại Hành hết lòng tôn kính sư. Ngài Lý Công Uẩn được tôn lên ngôi, sư ở tại chùa Lục Tổ đã biết trước nên cho yết bảng bố cáo ngoài đường lớn ghi rằng:

Tật lê chìm bể Bắc

Hạt lý mọc trời Nam

Bốn phương gươm giáo dẹp

Tám cõi mừng bình an

Sư viên tịch vào ngày 15 tháng 5 Ất Sửu (1025,  Thuận Thiên năm 16). Vua Lý Nhân Tông nhớ đến công đức sư có làm kệ truy tán:

Vạn Hạnh dung ba cõi

Thật hiệp lời sấm xưa

Quê hương tên Cổ Pháp

Chống gậy trấn kinh đô.

Thiền sư Từ Đạo Hạnh (? – 1117) đời thứ XII thiền phái Tì ni đa lưu chi (Pháp Vân) chùa Thiên Phúc, núi Phật Tích. Họ Từ tên Lộ, con của Tăng quan Đô án Từ Vinh và bà Tăng thị ở làng An Lãng.

Do muốn trả thù cha bị pháp sư Đại Điên dùng pháp thuật đánh chết nên Từ Lộ quyết tâm xuất gia tìm đường sang Ấn Độ học pháp thuật. Đi đến xứ Kim Xỉ man, núi non quá hiểm trở nên không thể vượt qua được, sư trở về lập am Hương Hải thờ đức bồ tát Quán Thế Âm tại núi Sài Sơn, hàng ngày trì tụng thần chú Đại bi đủ mười vạn tám ngàn biến.

Sau khi đạt được thần thông, trả mối thù nhà xong sư đi khắp các tùng lâm lễ bái tham cứu thiền học. Duyên may gặp được thiền sư Sùng Phạm, chùa Pháp Vân khai thị sư liền giác ngộ chân tâm. Từ đó pháp lực tăng trưởng có thể thuần phục ác thú, thi thố thần thông cầu mưa thuận gió hòa, chữa bệnh cho nhân dân không việc gì là không ứng nghiệm. Cuối đời sư có huyền kí: “Túc nhân ta chưa hết, còn phải tái sinh làm thân quốc vương. Sau khi mệnh chung lại sinh lên làm thiên tử  ở cõi trời thứ 33 (tức cõi trời Đao Lợi hay Đâu Suất Đà, nơi ngự trị của Đế Thích). Đến lúc nào thấy nhục thân ta hư nát thì lúc ấy ta mới nhập niết bàn, không ở cõi sinh diệt nữa. “Sư thác hóa vào ngày 7 tháng 3 triều vua Lý Nhân Tông (1117) . Nhục thân để thờ tại chùa cho đến thời quân Minh xâm lược thì bị đốt bỏ. Đến triều Lê nhân dân mới cho tạc tượng thờ lại như cũ. Tương truyền vua Lý Thần Tông (1128 – 1137) là hậu thân của thiền sư Từ Đạo Hạnh.

Quốc sư Minh Không (1066 - 1141) đời thứ XIII thiền phái Tì ni đa lưu chi (Pháp Vân), chùa Quốc Thanh, Trường An, người họ Nguyễn tên là Chí Thành, làng Đàm Xá huyện Đại Hoàng. Lúc còn trẻ sư thích vân du cầu học thiền lí, về sau gặp Đạo Hạnh, sư quyết chí theo thầy tu tập suốt 17 năm. Trước khi hóa thân, thiền sư Đạo Hạnh ân cần dặn dò Minh Không”. Ta nay còn phải tái sinh làm vua, sau đó do quả báo mắc bệnh hóa hổ. Ta đối với ngươi có nhân duyên, nhớ đến cứu giúp. “Đạo Hạnh viên tịch, sư trở về làng cũ ẩn tu. Đến lúc vua Lý Thần Tông mắc bệnh nan y, tâm thần rối loạn, kêu rống khiếp đảm, ngự y không chữa được. Nghe danh sư triều đình cho sứ giả đi tìm rước về kinh đô, sư liền dùng thần thông giải trừ oan trái ác nghiệt khiến vua lành bệnh hồi phục như cũ. Nhà vua ban thưởng trọng hậu tôn làm Quốc sư, sư viên tịch ngày 3 tháng 6 năm Giáp Tuất ( 1141 ).

Thiền sư Nguyện Học (1106 – 1175) đời thứ X thiền phái Vô Ngôn Thông (Kiến Sơ), chùa Quảng Báo, làng Chân Hộ, Như Nguyệt. Sư họ Nguyễn, ở làng Phù Cẩm, từ nhỏ thọ giáo với thiền sư Viên Trí chùa Mật Nghiêm, lãnh hội yếu chỉ Thiền tông. Sư đến núi Vệ Linh ẩn cư chuyên tu phạm hạnh suốt 12 năm. Hằng ngày sư trì tụng Hương hải Đại bi đà la ni. Đạt được thần thông, sư vận dụng chữa bệnh, cầu mưa, rất ứng nghiệm. Vua Lý Anh Tông nghe danh sư ban chiếu rước vào cung trị bệnh. Về sau sư xin cáo lão đến trù trì chùa Quảng Báo, lo việc giáo hóa đồ chúng. Ngày 11 tháng 6 năm Thiên Cảm Chí Bảo thứ 2 (175) sư để lại bài kệ trước khi an nhiên thị tịch:

Thân tâm liễu ngộ mắt huệ mở

Biến hóa linh thông bày tướng báu

Đi đứng ngồi nằm riêng vững vàng

Hóa thân ứng hiện đâu tính được

Mặc dầu đầy rẫy cả hư không

Xem ra nào thấy có tướng gì

Thế gian không có vật để sánh

Thường hiện linh quang sáng khắp nơi

Luôn luôn diễn nói không nghĩ bàn

Không có một lời cho thỏa đáng

(Hòa thượng Thích Thanh Từ dịch)

Thiền sư Đại Xả (1120 – 1180) đời thứ X thiền phái Vô Ngôn Thông (Kiến Sơ), chùa Báo Đức núi Vũ Ninh, sư họ Hứa quê ở làng Đông Tác (Hà Đông) từ nhỏ theo học với thiền sư Đạo Huệ, núi Tiên Du, đạt được yếu chỉ thiền tông. Sư chuyên tâm trì tụng kinh Hoa Nghiêm và chú Diệu môn Phổ Hiền (tức Tốc tật mãn Phổ Hiền hạnh nguyện Đà la ni) nên đắc thần thông diệu dụng được người đương thời ngưỡng mộ đông đảo. Vua Lý Anh Tông thường triệu sư vào cung tham vấn học đạo. Sư thị tịch vào ngày 5 tháng 2 năm Trinh Phù thứ V (1180).

Nhận xét: Qua sự ghi chép của sử sách, chúng ta tìm hiểu sự phát triển của Phật giáo Việt Nam sẽ thấy rõ các dòng thiền chính như: Tì ni đa lưu chi (Pháp Vân); Vô Ngôn Thông (Kiến Sơ) đã kết hợp với các yếu tố Mật giáo để hình thành truyền thống Thiền - Mật song tu rất sớm. Rất tiếc, từ giữa triều Lý về sau thần thông diệu dụng dần dần chuyển hướng sang pháp thuật, tà thuật. Một số các vị tu hành theo Mật giáo trì chú vì mục đích cầu được “Quyền lực siêu nhiên” để phục vụ cho giới quyền quí thanh toán lẫn nhau hoặc vì phục thù trả oán  hay mưu cầu lợi dưỡng, hư danh cá nhân.

 Ở dây chúng tôi xin ghi lại câu chuyện hòa thượng Thạch Liêm Thích Đại Sán đã huấn giới Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu như sau: Chiều hôm làm đàn Hỏa Diệm, nghi lễ đàn Bộ Châu vừa bày xong thì mây kéo đen trời, mưa gió chẳng ngớt. Quốc chúa ngẩng xem, dậm chân bảo rằng làm sao được một hôm tạnh ráo để pháp sư được chẩn thực như ý, Phật sự viên mãn thì quý biết chừng nào? Ta nghĩ nhà chúa một lần công đức tốn phí bạc ngàn bèn lấy hết tín thành cầu đảo niệm Uế tích kim cương thần chú 108 biến, đốt 2 đạo bùa. Nghĩ một lát lại niệm chú 48 biến. Mưa gió tạnh dần, một chốc vén mây thấy rõ trời xanh, rồi bóng tà dương phản chiếu nóc nhà, suốt đêm đầy trời sao sáng. Vương mừng rỡ tạ lễ, ý muốn học phù chú ấy. Ta bảo “Học thì rất dễ nhưng muốn cho linh ứng, cần phải tu luyện hằng tháng, hằng năm mới có thể tùy cơ ứng dụng”. Sau đó hòa thượng chỉ dạy những việc ích nước, lợi dân, thương yêu binh lính, mờ mang giao thương mà không dạy việc trì chú cho Quốc chúa.

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 03 năm 2012

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Nghiên cứu về thiền uyển tập anh. Lê Mạnh Thát. Nxb. TP. HCM.

2. Lịch sử Phật giáo Việt Nam. Lê Mạnh Thát. Nxb. TP Hồ Chí Minh.

3. Thiền sư Việt Nam. Thích Thanh Từ, 1992.

4. Việt Nam Phật giáo sử lược. Thích Mật Thể. Nxb. Minh Đức, 1960.

5. Việt Nam Phật giáo sử luận. Nguyễn Lang, Nxb. Văn học, HN , 1992

 

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Những áng mây trắng - Thơ: Hoang Phong - Diễn ngâm: Hồng Vân
    • Mẹ ơi - Thơ: Thích Phước Hạnh - Nhạc: Hoàng Lan
    • Khúc ca Tịnh Độ - Lời: Thích Phước Hạnh - Nhạc: An Sơn
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 69
    • Số lượt truy cập : 6449962