ĐỨC TRẦN NHÂN TÔNG VÀ CHUYỆN NHƯỜNG NGÔI
DIỆU HỶ VICKY LE
Trần Nhân Tông (1250-1308) là vị vua anh minh, được coi là vị anh hùng lớn của dân tộc Việt Nam, gần đây có cả trung tâm nghiên cứu mang tên ngài như Viện Trần Nhân Tông hay thậm chí sắp tới có thể có cả Đại học Trần Nhân Tông… Tuy nhiên, ngài thường được mô tả là đã bỏ ngôi vua để đi tu thì cũng không hiểu tại sao khi nghiên cứu và phát huy tư tưởng của Ngài chúng ta vẫn dùng cụm từ Trần Nhân Tông? Trong khi đó ở phương diện tu hành Ngài có những cách gọi như Điều Ngự, Hương Vân Đầu Đà? Chúng tôi cũng thử đưa ra vài cảm nhận cá nhân về chuyện nhường ngôi đi tu của vua và vai trò chính trị của vua trong giai đoạn cầm quyền.
1. Nhường ngôi
Hiện nay, người ta nói rằng vua Trần Nhân Tông nhường ngôi để đi tu và 2 việc này gắn liền với nhau. Tuy nhiên, cá nhân tôi thấy có sự khác biệt tế nhị. Theo sử sách ngày 9 tháng 3 năm Quý Tỵ (tức ngày 16 tháng 4 năm 1293) Trần Nhân Tông truyền ngôi cho Thái tử Trần Thuyên - tức Hoàng đế Trần Anh Tông - rồi lên làm Thái thượng hoàng. Anh Tông tặng vua cha tôn hiệu là Hiến Nghiêu Quang Thánh Thái Thượng Hoàng Đế (憲堯光聖太上皇帝). Năm sau (1294), Thượng hoàng xuất gia tu Phật tại hành cung Vũ Lâm (Ninh Bình). Bên cạnh đó, Nhân Tông vẫn tham gia cùng Anh Tông trị nước. Tháng 8 âm lịch năm 1294, quân Ai Lao xâm lấn Đại Việt lần hai và Thượng hoàng lại thân chinh đánh dẹp. Tháng 10 (âm lịch) năm 1299, Nhân Tông rời đến Yên Tử (Quảng Ninh), lấy pháp danh Hương Vân Đại Đầu Đà (香雲大頭陀) và tu hành theo thập nhị đầu đà. Ông còn có đạo hiệu là Trúc Lâm Đại Đầu đà (竹林大頭陀) hay Trúc Lâm Đại sĩ (竹林大士) và Giác hoàng Điều ngự (覺皇調御).
Như vậy, sau khi nhường ngôi thì ngài vẫn tham gia triều chính và cùng cầm quân đi đánh giặc, sau đó đến tận năm 1299 mới lên Yên Tử và có pháp danh Hương Vân Đầu Đà.
Một vấn đề khác chúng tôi muốn nêu đó là văn hóa nhường ngôi làm thái thượng hoàng của nhà Trần để qua đó nhìn nhận tổng thể về việc nhường ngôi của Trần Nhân Tông nói riêng và nhà Trần nói chung.
Nhà Trần là một triều đại hết sức kỳ lạ vì ngay từ khi khởi dựng lên nhà Trần thì triều đại này đã gắn với các Thái thượng hoàng và chuyện nhường ngôi không biết có phải vì nhân duyên này hay không? Nhưng triều đại này thì những chuyện đó là hết sức bình thường.
Câu chuyện Nhà Trần bắt đầu từ khi cuối năm 1225 Trần Thủ Độ buộc Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh mới 7 tuổi, vì vua nhỏ tuổi nên đã mời cha là Trần Thừa ra trông coi việc nước, được tôn làm Thái thượng hoàng. Xa xưa hơn một chút thì trong công cuộc tiếm quyền của nhà Lý còn có việc Trần Thủ Độ ép Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái nhỏ là Lý Chiêu Hoàng, Huệ Tông làm Thượng hoàng rồi xuất gia tu hành, Lý Chiêu Hoàng sau đó cũng bị ép nhường ngôi cho chồng. Như vậy, việc gầy dựng nên Hoàng Triều này là cả một chuỗi nhường ngôi và đã xuất hiện tới 2 Thái thượng hoàng trong vài năm ngắn ngủi.
Sau này, nhà Trần có đến 7 vua nhường ngôi làm Thái thượng hoàng gồm: Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông, Minh Tông, Nghệ Tông, Thuận Tông. Nhà Hậu Trần cũng có 1 Thái thượng hoàng là Trùng Quang Đế, thậm chí triều đại nhà Hồ cũng có Thái thượng hoàng là Hồ Quý Ly. Điều này khiến cho văn hóa làm Thái thượng hoàng và nhường ngôi là một cái khá thông lệ ở giai đoạn thế kỷ XIII vắt sang đầu thế kỷ XV kéo dài gần 200 năm tại Đại Việt. Thậm chí, vua trẻ ham chơi như An Tông cũng nhường ngôi, vua nửa đời sau sa đọa như Nghệ Tông cũng vậy.
Với một số quốc gia Đông Á khác chúng tôi xin điểm qua vài vị Thái thượng hoàng như: Tân Huệ Đế (301), Lương Ý Vũ Đế (400), Ngụy Hiến Văn Đế (471-476), Bắc Tề Vũ Thành Đế (565-569), Bắc Tề Hậu Chủ (577), Bắc Chu Tuyên Đế (579- 580), Tùy Dạng Đế (617-618), với triều Đường từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ X có rất nhiều vị như Đường Cao Tổ, Võ Tắc Thiên, Đường Huyền Tông, Đường Duệ Tông, Đường Thuận Tông, Đường Chiêu Tông. Nhà Tây Hạ cũng có 1 vị là Tây Hạ Thần Tông (1123-1226). Ngoài ra cũng có một vài vị nhà Tống nhưng chủ yếu do vua bị quân địch bắt nên phải tìm người kế vị và suy tôn vua cũ chứ không nhường ngôi. Đó là đại khái về các Thái thượng hoàng ở thế kỷ XIV về trước. Tuy nhiên, tập tục truyền ngôi này nếu nó tương tự Trần Thị ở Đại Việt nhất thì phải kể đến Đại Lý Đoàn Thị như các vua Văn Kinh Đế Đoàn Tư Anh, Bỉnh Nghĩa Đế Đoàn Tố Long, Đoàn Tố Chân, Đoàn Tố Hưng, Thượng Minh Đế Đoàn Huy Thọ, Bảo Định Đế Đoàn Chính Minh, Đoàn Chính Thuần, Đoàn Hòa Dự, Đoàn Chính Hưng… Bên cạnh đó, các vua Đại Lý Đoàn Thị cũng hâm mộ Phật, thường sẽ nhường ngôi xuất gia thậm chí có rất nhiều vị thành đại sư nổi tiếng (số lượng nhiều hơn Trần Thị) và cũng có tu hành cả khi còn làm vua khá giống với Trần Thị và giai đoạn của Đoàn Thị là từ thế kỷ X đến thế kỷ XIII. Tuy nhiên, có một vài điểm khác nhau của Đoàn Thị và Trần Thị là các vua Trần Thị nhường ngôi xong thường cùng vua trẻ trị nước còn các vua Đoàn Thị sẽ đem các tướng lĩnh và Quan Thanh Bình của mình đi ẩn cư một nơi khác, vua Trần Thị cơ bản truyền ngôi kiểu cha cho con hoặc hãn hữu có anh trai truyền cho em hay ngoại lệ chú cháu như Hậu Trần, còn Đoàn Thị ngay từ đầu các vua đã thuộc 2 dòng thúc bá và có thể truyền ngôi giữa anh em họ, chú cháu, cha con…
Qua một vài liệt kê, tôi thấy là truyền thống nhường ngôi làm Thái thượng hoàng này xuất hiện của yếu ở các triều đại có xu hướng “Hồ Phong” như ở giai đoạn Nam Bắc Triều, Tùy Đường hay Đoàn Thị Đại Lý… còn ít thấy hơn ở các triều đại “Hán Phong”?
Cũng xem lại một vài điểm đặc biệt khác của nhà Trần thì thấy họ còn có truyền thống kết hôn trong nội tộc,thậm chí đảo lộn vai vế, tuy nói để tránh nạn ngoại thích nhưng kiểu kết hôn kỳ lạ cũng hay tìm thấy ở người Hồ, các bộ tộc du mục các triều đại như Nguyên hay Thanh sau này cũng có.
Việc dùng tướng lĩnh quan lại đều anh em vương hầu thân tộc cũng có vẻ gì đó rất gần với mô hình của các triều đại như của các tộc du mục như Nguyên, Thanh.
Sự xuất hiện của nhân vật Hồ Quý Ly và gây nên Pháp nạn cho Phật giáo Đại Việt cũng dường như làm cho “bức tranh” có nét của diễn tiến kiểu các triều đại Nam Bắc Triều, Tùy, Đường sùng Phật sau đó xuất hiện các vua gây pháp nạn như Tam Vũ (Bắc Ngụy Thái Vũ Đế, Bắc Chu Vũ Đế, Đường Vũ Tông). Sự sùng mộ tôn giáo cũng là nét hay thấy ở các triều đại có yếu tố người Hồ. Dường như nhà Trần có cả nét tộc người riêng không giống văn hóa Hán?
Như vậy, theo quan kiến của tôi thì việc nhường ngôi của nhà Trần mang tính chất thông lệ quy ước của gia tộc, sắc thái của tộc người, tất nhiên còn có chiến lược nhằm tránh rơi vào tình trạng hỗn loạn như kiểu đợi đến khi vua băng hà mới cho vua trẻ kế vị.
Còn việc Trần Nhân Tông xuất gia thì là hành động cao đẹp nhất mà một chúng sinh có thể làm trong cuộc đời, nhưng cũng nên tách bạch với việc nhường ngôi, vì nhường ngôi trong văn hóa và lịch sử nhà Trần là việc thường xuyên và để đảm bảo các yếu tố nào đó cho triều đại, ông có đi tu hay không đi tu sau này thì cũng vẫn sẽ nhường ngôi nên 2 việc này không gắn chặt với nhau, nhường ngôi không hẳn để đi tu, còn đi xuất gia hay tu tại gia hay hưởng thụ hay tiếp tục chấp chính là các lựa chọn riêng của các vua Trần ở giai đoạn Thái thượng hoàng.
2. Vai trò chính trị
Trần Nhân Tông là một vị vua anh hùng đã góp phần lãnh đạo đất nước 2 lần chống quân xâm lược Nguyên Mông. Tuy vậy, nhà Trần có mô hình quản lý đất nước khác với các triều đại khác, Vua không hẳn là độc tôn.
Ngay khi khởi lập nhà Trần, chúng ta đã thấy tính chất gia tộc rất mạnh, việc Trần Thủ Độ chỉ là chú họ của Trần Thái Tông cứ cho là yêu cô ruột vua là Trần Thị Dung đi nữa thì việc lấy ngôi cho đứa cháu họ là việc khá hiếm, cho thấy tính chất gia tộc mạnh hơn cả lợi ích cá nhân.
Ngay sau này, văn hóa tín ngưỡng Việt Nam cũng ghi nhận dòng tín ngưỡng nhà Trần tức họ hiển thánh theo kiểu cả gia đình có cả mấy thế hệ cùng vài nô bộ chứ không phải một vài người đơn lẻ, lại một hình ảnh văn hóa gia tộc.
Trong văn hóa cả gia tộc cùng nắm quyền mạnh như thế thì tất nhiên quyền lực cũng được chia sẻ rất nhiều cho các anh em hay như cuộc chiến chống quân Nguyên Mông hồi Trần Nhân Tông chúng ta thấy rất nhiều vị Vương gia các thúc bá của vua như Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn… Rồi sách Đông A Di Sự, một cuốn sách không phải chính sử có tính tham khảo cũng kể về Huệ Túc Phu Nhân là một cô gái người Tống chạy giặc sang Đại Việt, gia đình mang theo bộ môn Tử Vi nổi tiếng và bà đã lấy vua Thái Tông rồi truyền thụ môn này trong Trần tộc. Đến khi đối diện với giặc Mông Cổ phải vào thế không biết Hòa hay Đánh, tiến thoái lưỡng nan nhà Trần còn phải dùng đến cả việc chấm sổ tử vi để xem con em ra sao và được Phu Nhân khuyên chiến đấu vì các con cháu đều là dạng anh hùng hiển hách.
Qua đó, thấy guồng máy lãnh đạo của nhà Trần là sự chung sức của cả gia tộc và công việc được chia ra cho rất nhiều người.
Ngay cả ở cấp lãnh đạo cao nhất như Hoàng đế cũng rất kỳ lạ, nhà Trần (1225-1400) trong vòng 175 năm cầm quyền thì đến 110 năm có Thái Thượng Hoàng.
Cá nhân Trần Nhân Tông chỉ thực sự làm vua 1 mình có 3 năm cuối còn 12 năm đầu có vua cha Thánh Tông ở bên cạnh. Còn bản thân vua Thánh Tông thì cả đời làm vua lúc nào cũng có Thượng hoàng Thái Tông, sau khi Thái Tông băng hà thì Thánh Tông cũng nhường ngôi cho Nhân Tông. Trong kháng chiến Nguyên Mông, chúng ta hay thấy cụm từ “Nhị Thánh” chỉ 2 cha con Hoàng đế Nhân Tông và Thượng hoàng Thánh Tông.
Như vậy, ngay ở cấp độ cao nhất cũng hình thành thế lãnh đạo tập thể và công cuộc lãnh đạo chống quân xâm lược hay nội trị quốc gia đều là công sức tập thể của cả gia tộc và 2 vị vua, đặc biệt vua Thánh Tông dạn dày kinh nghiệm.
3. Kết luận
Qua vài nhận xét cá nhân, tôi rút ra việc đức Điều Ngự Trúc Lâm Đầu Đà một thiền sư lớn của Việt Nam đã từ một con người như bao nhiêu người khác đã dũng cảm lựa chọn con đường xuất gia, một hành động cao đẹp bậc nhất mà chúng sinh có thể có. Ngài cũng cởi bỏ chiếc Hoàng bào từ lâu. Trong bối cảnh của nhà Trần có nhiều nét đặc biệt như vậy khi nghiên cứu về Ngài, mà chủ yếu là tư tưởng Phật giáo của Ngài, chúng ta cũng không cần nhất thiết quá gắn chặt với hình ảnh hoàng đế, Trúc Lâm Đại Sĩ, Hương Vân Đại Đầu Đà… những tên gọi cuối đời của Ngài nên cần được vinh danh hơn nữa chứ không nên chỉ là các viện, đại học mang tên vị Hoàng đế Nhân Tông.
Trọng Đông Tân Sửu
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Đại Việt Sử ký toàn thư
- Truyền thống Trúc Lâm Yên Tử, Nguyễn Đức Hiền
- Lịch sử 5.000 năm Trung Quốc
- Đông A Di Sự
- Từ điển Phật học
- Lịch sử châu tự trị Đại Lý
Bình luận bài viết