GIỚI THIỆU MỘT SỐ TÁC PHẨM THƠ VĂN
CỦA MINH VƯƠNG NGUYỄN PHÚC CHU
THÍCH TUỆ NHẬT*
Hơn 30 năm lãnh đạo đất nước, Nguyễn Phúc Chu đã đóng góp cho đất nước nhiều thành tựu đáng kể, từ việc củng cố quân đội, yên định bờ cõi vùng Thanh Hóa phía Bắc, đến công cuộc mở mang biên giới phương Nam đến tận Hà Tiên – Cà Mau, tất cả đều là những thành tích đáng nể trọng, ghi đậm dấu ấn trong quá trình Nam tiến của dân tộc Việt. Về sự nghiệp văn trị, ông có công phát triển giáo dục, chiêu hiền đãi sĩ, lấy đức phục người, giúp cho dân xứ Đàng Trong hưởng cuộc sống ấm no, thái bình.
Bên cạnh tài võ công và văn trị, bản thân Minh vương Nguyễn Phúc Chu còn là một văn nhân thi sĩ tài ba. Sách Đại Nam thực lục còn ghi lại tài văn chương của ông như sau: “Chúa rộng xem kinh sử, vui cùng bút mực, phàm trước tác đề vịnh, đều có ý tự nhiên”[1]. Tuy nhiên, các sách vở viết về văn học Việt Nam thời nay chưa đề cập nhiều đến tên tuổi Nguyễn Phúc Chu. Phải chăng vì sự nghiệp mở cõi phương Nam quá lớn, khiến người ta ít đề cập đến những đóng góp của ông về mặt văn học? Do đó, chúng tôi xin giới thiệu một số tác phẩm thi ca, văn chương, câu đối,... của Nguyễn Phúc Chu hầu góp phần khẳng định tên tuổi của ông trong nền văn học Việt Nam thời Trung đại.
1. THI CA
Những bài thơ của Nguyễn Phúc Chu được ghi chép chính thức trong Đại Nam thực lục và Đại Nam liệt truyện không nhiều. Người ta thường biết đến trước hết là 4 bài thơ mà ông đã cảm xúc khi nhớ về nàng Kính phi họ Nguyễn sau khi bà từ trần[2]:
Bài 1:
Phiên âm:
Vấn thiên hà sự thiết ngô phi!
Hoa tạ, tam cung nguyệt yếm huy!
Bất đạc nữ trung vong khổn phạm!
Hoàn tri kỳ nội thất dung nghi.
Thời đương thất tịch Ngân hà ám.
Sầu ký thiên niên giới lộ hi!
Mạn đạo tiếu nhân nhi phụ thái.
Cổ kim thùy cánh thử tình vi.
Dịch nghĩa:
Cớ chi trời lại cướp phi ta!
Hoa rụng, ba cung bóng nguyệt tà.
Chẳng những gương treo trong bạn gái.
Lại đầy năm chẵn vắng người hoa!
Đêm vừa mồng bảy sông Ngân tối!
Sầu để ngàn năm móc hẹ pha!
Đừng có cười trò nhi nữ nhé!
Tình nay ai để tránh từ xưa.
Bài 2:
Phiên âm:
Khứ niên Chức nữ nhập song minh,
Khước bị trung vân tựu địa sinh.
Chế cẩm vị hoàn, ty tại trục!
Xuyên châm tài bãi, tuyến phiêu doanh!
Không hoài ngũ dạ Quỳnh lâu địch,
Khởi vọng song xuy ngọc điện sinh.
Nhất phiến mê ly nghi thử tế.
Uyên ương tú chẩm mộng nam thành.
Dịch nghĩa:
Sao nữ năm qua soi cửa sổ
Làn mây lớp lớp đến che rồi!
Gấm dệt chưa xong tơ lở dở!
Kim xâu vừa được, chỉ tơi bời!
Sáo Quỳnh lâu, canh khuya luống nhớ!
Sênh ngọc điện, nay dễ thổi đôi
Mơ hồ tấc dạ ngờ đâu đó,
Giấc mộng uyên ương uổng kiếm hoài!
Bài 3:
Phiên âm:
Nội trợ tằng kinh ức ỷ ni,
Duy dư đồng nhữ lưỡng nan kỳ,
Phi nhân mộ sắc tiềm huy lệ,
Chỉ vị tôn hiền tụng phú thi.
Việt hải tuy khoan, nan tải hận,
Tẩm lăng nghi cận, dị quan bi.
Trường đê thả mạc tài dương liễu
Hảo đãi Thanh minh túng mục thì.
Dịch nghĩa:
Dịu dàng nội trợ nghĩ thương âu
Chỉ chúng ta sao khó hẹn nhau.
Há vì sắc đẹp rơi hàng lệ,
Chỉ vị người hiền vịnh mấy câu.
Biển Việt dầu to khôn chở hận,
Bia lăng gần đọc để khuây sầu.
Đê dài đừng có trồng dương liễu.
Đợi tiết Thanh minh mắt ngắm lâu.
Bài 4:
Phiên âm:
Nhữ thọ tuy vi, phúc tự trường,
Nhân truyền phúc trạch Nguyễn cung hương.
Phao tư kim ngọc doanh song níp,
Lưu thử nhi tôn mãn nhất đường.
Đối cảnh kỷ hồi hàm biệt lệ,
Lân tài nhất thế động trung trường.
Kim bằng diệu pháp không vương lực,
Tiến bạt u hồn đạt thượng phương.
Dịch nghĩa:
Tuổi thọ ngắn thôi phúc lại dài,
Phúc lưu cung Nguyễn ngát hương trời.
Quăng đi vàng ngọc đầy hai tráp,
Để lại cháu con nối vạn đời;
Đối cảnh đòi phen cầm giọt lệ,
Thương tài một kiếp động lòng ai.
Nhờ phép Như Lai mầu nhiệm ấy,
U hồn siêu độ thoát luân hồi.
Qua bốn bài thơ trên, chúng ta phần nào cảm nhận được tấm chân tình của Nguyễn Phúc Chu đối với Kính phi, một cung tần có vị trí đặc biệt trong cuộc đời của ông. Kính phi vốn là con gái tham chính Nguyễn Hữu Hiệp, sau khi vào cung được cất nhắc làm Hữu cung tần thứ 3, rồi được thăng lên Chánh nội phủ, sau khi mất được tôn là Kính phi, thụy hiệu Từ Đức, an táng ở xã Trúc Lâm. Tương truyền bà sinh cho chúa 11 người con, và rất được chúa sủng ái. Cho nên, sau khi bà mất, chúa đã làm trai đàn trọng thể ở chùa Thiên Mụ để cầu siêu bạt độ, và còn đề tặng bốn bài thơ lên vách tường chùa như đã dẫn ở trên.
Bên cạnh bốn bài thơ khóc thương Kính phi, sách Đại Nam thực lục và Đại Nam liệt truyện còn chép lại một bài thơ và lời đề tựa viết vào tấm lĩnh hoa trắng ban cho đại thần Trần Đình Ân khi ông về quê ẩn dật[3]:
“Quốc Chúa Thiên Túng Đạo Nhân[4] ngự sắc ban cho Tham chính Chánh đoán sự Đông Triều hầu Trần Đình Ân từ chức về làng bài thơ và lời tựa. Khanh trải giúp bốn triều đóng góp nhiều về chính sự trong nước và kỷ cương triều đình. Trong số bề tôi, duy khanh cần cù hơn cả. Lại mừng rằng khanh là người khiêm nhường ôn hòa, vui đạo, hiếu thiện. Bởi thế quế thơm, bạn tốt, một nhà quý hiển, tuổi gần 80 vẫn chưa bạc đầu. Thế là người phúc thọ của nước ta. Nay vì chuộng đạo, ưa tĩnh, xin từ chức về làng, ta cố giữ mãi hai ba lần vẫn không lay chuyển được ý chí. Lúc ra về, ta đặc cách ban cho 10 mẫu ruộng, 10 lính hầu, dùng để làm dưỡng lão. Như thế e chưa đủ hết lòng ta, vậy tặng một bài thơ bảy chữ để tỏ hết ý ta. Thơ rằng:
Phiên âm:
Bình sinh trì thiện, tính tinh thuần,
Tán phụ ngô triều tứ thế nhân.
Chính nghiệp dĩ thành từ tử thụ,
Đạo tâm thường hiện khước hồng trần.
Hy hy hạc phát đồng Thương Hạo,
Nghiễm nghiễm tiên phong diệc Hán thần.
Thử khử Quảng Bình hà sở sự?
Thanh sơn lục thủy lạc thiên chân.
Dịch thơ:
Suốt đời vui thiện, tính tinh thuần,
Giúp việc bốn triều, bậc lão nhân.
Chính nghiệp đã thành, từ mũ ấn,
Đạo tâm thường hiện, lánh hồng trần.
Phơ phơ tóc bạc như Thương Hạo[5]
Phơi phới lòng tiên thựa Hán thần[6]
Về ở Quảng Bình[7] chi bận nhỉ?
Non xanh nước biếc thỏa tinh thần”.
Trần Đình Ân người huyện Minh Linh, thuộc Quảng Trị, là người khoan hòa, độ lượng, đóng góp nhiều công trạng cho triều đình, từng hiến kế giúp Thái Tông Hoàng Đế Nguyễn Phúc Tần đánh thắng quân Trịnh. Năm 1684 được thăng làm Cai Hợp, năm 1689 thăng làm Cai bạ Phó đoán sự, năm 1700 thăng làm Tham chính Chánh đoán sự. Đến năm 1703 khi tuổi đã 78, ông dâng sớ xin cáo lão về chùa Bình Trung, vui với đạo Phật, ông mất năm 1706, hưởng thọ 81 tuổi.
Thêm một bài minh nữa được ghi trong Đại Nam liệt truyện, như là tác phẩm của Nguyễn Phúc Chu truy tán Tổ Nguyên Thiều sau khi Ngài tịch, “Hiển Tông Hoàng Đế[8] cho tên thụy là Hạnh Đoan Thiền sư, nhân làm bi ký và bài minh”[9]. Tuy nhiên, theo tác giả Lịch sử Phật giáo xứ Huế thì Tổ Nguyên Thiều viên tịch năm 1728, mà Nguyễn Phúc Chu lại mất năm 1725, cho nên, đây phải là bài minh của Nguyễn Phúc Thụ tán dương Ngài, chứ không phải của Nguyễn Phúc Chu[10]. Còn riêng về mảng thơ văn của Nguyễn Phúc Chu, Lịch sử Phật giáo xứ Huế cho ta biết thêm một tác phẩm khác, đó là bài “Thiên Mụ hiểu chung”:
Phiên âm:
Ký bạch đông phương túy tích trùng,
Thự quynh tiệm dữ bách hoa nùng.
Tà khan vân ảnh giang can nguyệt,
Bất thính triều thanh sơn tự chung.
Độc ngã nhàn tình y phiếu miễu,
Kỷ nhân trần mộng đắc thung dung.
Du du dư vận chư thiên lý,
Phạn ngữ dao ưng đáp hiểu chung.
Dịch thơ[11]:
Biêng biếc trời đông đã sáng trưng,
Trăm hoa ửng nắng sắc hương nồng.
Nhìn nghiêng mây phủ trăng sông lẩn,
Nghe vẳng triều dâng chuông núi rung.
Riêng tỏ tình mây hương bát ngát,
Bao người cảnh mộng được thong dong.
Minh mang tiếng nhạc từng không tỏa,
Kinh tụng xa đưa chuông sớm lồng.
Bài thơ này được tìm thấy trên một chiếc bát cổ bằng men sứ cùng với phong cảnh tả vẻ đẹp chùa Thiên Mụ. Xét về bề dày thời gian, tính đến ngày nay, đây có thể nói “là bài thơ đầu tiên về chùa Thiên Mụ khơi dậy cả một luồng thơ về ngôi danh lam này, với Thạch Liêm, Phan Huy Ích, Ngô Thế Lân, Thiệu Trị…”[12].
Gần đây, nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn còn tìm thấy những bài thơ khác của Minh Vương Nguyễn Phúc Chu như bài ký và tán khắc trên khánh đá tôn trí tại chùa Thiên Mụ:
Phiên âm:
“Thạch sanh tú thủy, ngọc xuất Côn sơn
Tề an tích nhật, trừng thủy thử gian
Đắc chi bất dị, ngộ chi diệc nan
Sắc phân ngũ thái, thanh đới kim am
Trúc thành vân khánh, bát âm liệt ban
Vĩnh trấn cổ tự, tường thụy vạn niên”.
Trần Đình Sơn dịch:
“Nước tốt sanh đá, non Côn xuất ngọc
Từ xưa vẫn yên, dòng nước sông Trừng
Được nó không dễ, gặp nó càng khó
Sắc phô năm màu, tiếng tựa chuông ngâm
Chạm thành khánh mây, bày theo nhạc lễ
Để trấn chùa xưa, điềm lành vạn thuở”.
Và một số bài thơ khác vịnh phong cảnh vùng Thuận Quảng của Nguyễn Phúc Chu cũng được Trần Đình Sơn phát hiện trên đồ sứ ký kiểu như các bài “Hà trung yên vũ”, “Ải lĩnh xuân vân”, “Tam thai thính triều”, “Thuận Hóa vãn thị”. Chúng tôi xin được trích các bài thơ ấy trong bài viết của ông trên Nguyệt san Giác Ngộ, số 184[13]:
Trước hết là bài “Hà trung yên vũ” (Mù tỏa hà trung) trong “Đạo nhân thư”:
Phiên âm:
“Hải khí sơn phong táp táp kinh
Tiệm khan yên thấp tán thiên thanh
Ngư đăng kỷ điểm tri giang ngạn
Lữ khách lạc tiêu thính vũ thanh
Thiền tụng bất văn u khánh vận
Hương tư nan xích cố nhân tình
Việt Nam diệc hữu Tiêu Tương cảnh
Dục thiến đan thanh tả vị thành”.
Dịch thơ:
“Sóng trào gió rít nghĩ mà kinh
Mùa tỏa dần tan mây trắng xanh
Bến cũ đèn chài thấp thoáng điểm
Mưa buồn lữ khách lắng thâu canh
Phật kinh không vẳng dư âm khánh
Quê cũ ai hay nỗi nhớ mình
Việt Nam cũng có Tiêu Tương cảnh
Muốn vẽ mà sao chẳng vẽ thành”.
Bài tiếp theo là “Ải lĩnh xuân vân” (Mây xuân đỉnh ải) trong “Đạo nhân thư”:
Phiên âm:
“Việt Nam xung yếu thử sơn điên
Tuyệt lĩnh hoàn như Thục đạo thiên
Đản kiến vân hoành tam tuấn lĩnh
Bất tri nhân tại kỷ trung thiên
Lãnh triêm tu phát phi đồng tuyết
Thấp tiễn y thường khởi thị tuyền
Duy nguyện hải phong xuy tác vũ
Chính nghi thiên lý nhuận tang điền”.
Dịch thơ:
“Việt Nam hiểm trở có non này,
Thục đạo nghìn trùng chót vót thay!
Chỉ thấy mây che ba đỉnh lớn,
Nào hay người ở mấy từng đây?
Không khe suối, cũng dầm xiêm áo.
Chẳng tuyết băng, sao buốt tóc mày.
Gió biển nguyện xin thành mưa móc,
Ruộng dâu ngàn dặm tốt tươi bày”.
Một bài nữa là “Tam Thai thính triều” (Ở núi Tam Thai nghe sóng) cũng được chép trong “Đạo nhân thư”:
Phiên âm:
“Kỳ tú Tam Thai tủng bích phong
Trung hư ngoại hữu bạch vân phong
Tự lai Việt hải văn xuân lãng
Như tại Bà dương thính thạch chung
Bất đoạn phong thanh bôn bạch mã
Hoàn nghi vũ sắc khởi thương long
Dục tầm thanh mộng hà tằng khán
Hưởng triệt nham tiền kỷ thụ tùng”.
Dịch thơ:
“Tam Thai chất ngất đỉnh non xanh,
Động vắng mênh mông mây phủ quanh.
Dào dạt sóng Xuân trào Việt hải,
Ngân vang chuông đá vọng Dương thành.
Gió reo ngựa trắng liên hồi trẩy,
Mưa cuốn rồng xanh thấp thoáng đoanh.
Mộng đẹp mong tìm sao chửa thấy,
Rì rào vách núi cụm tùng xinh”.
Và bài “Thuận Hóa vãn thị” (Chợ chiều Thuận Hóa) trong “Đạo nhân thư”:
Phiên âm:
“Noãn yên tịch chiếu luyến giang tân
Tế thính oanh đề xứ xứ xuân
Vãn thị chỉ khan hồng phấn nữ
Thông cù bất đoạn ỷ la trần
Thời cô bạch tửu năng diên khách
Nhật dụng thanh tiền khước tiện dân
Giao dịch khởi vô hành dữ đấu
Hoàn dư phong tục Cát Thiên thuần”.
Dịch thơ:
“Khói ấm hoàng hôn quyện bến sông
Lắng nghe oanh hót bạt ngàn xuân
Chợ chiều tha thướt đàn con gái
Suối lụa tung hê nẻo bụi hồng
Rượu trắng vui vầy mua đãi khách
Tiền đồng trao đổi tiện cho dân
Bán buôn lọ phải cần cân đấu
Nếp Cát Thiên xưa vẫn thấm nhuần”.
Trên đây là những áng thơ của Nguyễn Phúc Chu thuộc các thể loại và chủ đề khác nhau. Có bài thì nói lên tình cảm, nỗi lòng, có bài tả cảnh sông nước, núi non, một số lại nói về cảnh sinh hoạt thường nhật của người dân vùng Thuận Hóa,… Lời thơ được chắt lọc, ý thơ sâu sắc, cho thấy cả giá trị nội dung lẫn nghệ thuật đều xứng đáng được trân trọng trong mảng thơ thời Trung đại. Chắc chắn, ngoài những bài vừa nêu, Nguyễn Phúc Chu còn nhiều tác phẩm thi ca khác nữa, nhưng rất tiếc chúng ta chưa tìm thêm được, cũng có thể chúng chỉ được ghi chép qua loa khi Nguyễn Phúc Chu cảm tác, hoặc được ghi lại cẩn thận, nhưng lại bị thất lạc theo thời gian. Mong rằng trong tương lai, chúng ta sẽ tìm ra để thưởng thức thêm những áng thơ đó.
2. CÂU ĐỐI
Xét về thể loại đối liễn, Nguyễn Phúc Chu lúc sinh thời hẳn đã sáng tác rất nhiều. Chỉ cần căn cứ vào số lượng câu đối chúng ta tìm thấy thuộc các mảng như khen tặng công thần và làm tặng các ngôi chùa cổ, đã trên dưới 10 cặp, thì chúng ta có thể phỏng đoán rằng, các đề tài khác thuộc nhiều lĩnh vực trong cuộc sống, hiển nhiên Nguyễn Phúc Chu cũng cảm hứng và sáng tác, vì ông vốn là người “ham học, chịu đọc sách, kiêm cả tài lược văn võ”[14], “đọc rộng Kinh, Sử, ưu du nơi hàn mặc, sáng tác, đề vịnh đều có chỗ kỳ diệu tự nhiên”[15]. Ở đây, chúng tôi xin giới thiệu một số cặp câu đối được ghi trong Đại Nam liệt truyện và lưu giữ nơi một số chùa ở miền Trung Việt Nam.
Đầu tiên là câu đối Nguyễn Phúc Chu khen tặng Nguyễn Cửu Thế nhân sự kiện Cửu Thế dẹp yên được nội loạn, do Nguyễn Cửu Khâm cấu kết với Tống Phúc Thiệu định làm phản nhưng không thành[16]:
Phiên âm:
“Vi đống vi lương, trọng trấn Nam triều lương hữu bật.
Thí kim thí ngọc, trang ngô quốc lão điện bàn an”.
Nghĩa là:
“Làm cột làm rường, trọng trấn Nam triều thật là phụ bật xứng đáng.
Như vàng như ngọc, khen người quốc lão, giúp cho bàn thạch vững vàng”.
Hai cặp đối khác cũng là khen tặng các trung thần, được ghi lại trong Đại Nam liệt truyện là câu đối ban tặng Nguyễn Đăng Đệ[17]:
“Lập pháp tinh hình, cách kiến ngã triều sinh Cấp Ảm;
Sử dân vô tụng, phương tri ngô quốc hữu Hoài Nam”.
Nghĩa là:
“Lập luật pháp bớt hình phạt, lại thấy triều ta có Cấp Ảm[18].
Làm cho dân không kiện cáo, mới biết nước ta có Hoài Nam”.
Và câu đối ban tặng Trần Đình Khánh:[19]
“Tài phú xuất ư Quảng Nam, ỷ khanh, thiên lý vi cam vũ.
Mưu du kiến ư hoàn nội, vị ngô nhất quốc tác can thành”.
Nghĩa là:
“Của cải ra từ Quảng Nam, nhờ khanh ngàn dặm phun mưa ngọt.
Mưu mô dựng ở trong cõi, vì cả một nước làm can thành”.
Nguyễn Đăng Đệ quê ở Nghệ An, “là người ôn nhã, trung chính, văn học sâu rộng”[20]. Ông vốn mang họ Trịnh, cháu bảy đời của Trịnh Cam thuộc nhà Lê (khi nhà Mạc cướp ngôi họ Lê, Trịnh Cam bèn chạy vào Thuận Hóa và gây dựng cơ nghiệp tại vùng đất mới), nhờ tài biện minh tường tận rõ ràng, bàn bạc sâu rộng đầy đủ, nên ông được chúa Nguyễn cất nhắc vào lo việc văn chức và ban cho họ Nguyễn. Năm 1712, ông làm Ký lục ở Quảng Nam, giúp phong tục phồn thịnh, giảm thiểu kiện cáo, nêu cao tính thanh liêm và công bình, nên nhờ đó mà nhân dân rất mực yêu mến. Đến năm 1715, ông lài làm chánh doanh độ tri, và năm 1717, Minh Vương Nguyễn Phúc Chu lại quyết định bổ nhiệm ông về Quảng Nam để lãnh chức Ký lục, vì Minh Vương cho rằng, nhờ ông mà dân tình tín phục, xã hội yên ổn, cũng nhân đó làm câu đối trên đề tặng.
Còn Trần Đình Khánh, ông là con trưởng của Đông triều hầu Trần Đình Ân, “có văn tài, nhanh nhẹn, giỏi tư lệnh”[21]. Năm 1701 được thăng làm Cai bạ Quảng Nam, làm chính sự rất tốt và được nhân dân tin tưởng. Chính vì thế Nguyễn Phúc Chu hết lời khen ngợi và ban tặng câu đối. Khi mất, ông được phong là Đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu, Thái thường tự khanh, thụy là Thông Trí.
Bên cạnh các cặp đối ban tặng cho công thần, Nguyễn Phúc Chu còn sắc phong và làm đối liễn tặng các chùa như: chùa Hoằng Phúc (chùa Kính Thiên) ở Quảng Bình, chùa Thập Tháp – Di Đà ở Bình Định, chùa Quốc Ân ở Huế. Ngoài ra, chúa còn ban tặng chùa Thiên Mụ một bức hoành đề bốn chữ “Linh Thứu Cao Phong” đến nay vẫn còn, tương truyền là thủ bút của chính Nguyễn Phúc Chu. Hoặc khi cho sửa lại chùa Hoằng Phúc, chúa cũng ngự đề hai hoành biển là “Kính Thiên tự” và “Vô song phúc địa”; sửa chùa ở thôn Hiền Sĩ trên nền cũ, chúa cũng đặt tên là chùa Hoàng Giác, và chế biển vàng ban cho.
Ở đây, chúng tôi xin lần lượt giới thiệu một số cặp câu đối ở các chùa: Hoằng Phúc, Thập Tháp – Di Đà và Quốc Ân.
5 cặp câu đối ở chùa Hoằng Phúc[22] được ghi trong Đại Nam nhất thống chí:
1. Huyền bảo kính vu không đường, sâm nghiêm vạn tượng; Xán tâm đăng vi tính địa, diệu chứng vô vi (Nhà không khoáng treo gương Quý; muôn tượng giăng bày chỗ tính linh rạng đèn lòng, vô vi mầu nhiệm).
2. Đại đạo hoằng nhân, địa bố hoàng kim, liên hoa pháp giới; Thường sa hiện tướng, tọa liên bích ngọc, thủy nguyệt thiền tâm (Đạo rộng lớn mở người, cõi pháp hoa sen vàng khắp đất. Cát hằng hà hiện tướng, lòng thiền trăng nước ngọc liền tòa).
3. Đài tâm lý chi hương, kim lô bảo triện tường vân hợp; Thức huyện trung chi diệu, bố diệp linh văn pháp vũ quân (Hướng lòng dâng cao, khói triện đỉnh vàng, mấy lành hợp một; Diệu huyền hiểu được, văn thiêng lá bối, mưa ngọt tưới đều).
4. Náo thị kiến thiền quan, đông trung năng tĩnh, Vi trần minh tự tính, hữu bản vô tôn (Cửa thiền giữa ồn ào, động mà hay tĩnh; Tính rõ mảy bụi, có vốn tự không).
5. Nhất thanh phổ độ dã, từ bi cổ Phật; Ức sinh giáo hóa dã, hoằng nguyện như lai (Rắp một niềm từ bi phổ độ; Mong chúng sinh đến cõi thứ hai).
Cặp câu đối ở Chánh điện chùa Thập Tháp – Di Đà[23]:
“Phật tính viên dung, trạm nhược hư không, mạc năng trắc kỳ biên tế;Pháp thân vô tướng, cảo như hao nhật, thục cảm nghĩ kỳ cao minh”.Thái Hòa dịch: Phật tính tròn đầy, trong trẻo tựa hư không, khó lường được giới mốc; Pháp thân vô tướng, sáng như mặt trời hiện, đâu dám chuyện nghĩ bàn.
Và cặp câu đối ở chùa Quốc Ân[24]:
“Bối diệp phiêu vân, lục thời thiền tụng kỳ phong mẫn; Ca sa thấp vũ nhất trị thanh cơ kiến đạo xương.
Bát bảo xán kim lương, hiểu nhựt lâm quan tiễn hữu nhơn hữu cảnh; Ngũ vân sanh ngọc đống, xuân quan triều toả, hỷ bất tức bất ly”.
Dịch:
Mây phất phơ trên kinh lá bối, sáu thời tiếng thiền niệm cầu hoa lợi phong đăng, Mưa thấm khắp nếp áo Cà sa, mùi đạo thanh tu có cơ duyên phát đạt.
Đồ bát bảo rực rỡ rương vàng, vừng mặt trời chiếu đến thiền quang, mến được có người và có cảnh; Mây ngũ sắc giăng quanh cột ngọc, bóng xuân triều về toà Phật, vui thay không mất lại không xa.
3. VĂN CHƯƠNG
Như đã đề cập, Nguyễn Phúc Chu tài kiêm văn võ, sáng tác đề vịnh rất nhiều. Riêng xét về lĩnh vực văn chương, cho đến nay chúng ta còn lưu trữ lại được một số văn bản như bài văn bia khắc trên bia đá chùa Thiên Mụ, bài tựa trong Hải ngoại kỷ sự, và một số sắc lệnh, chiếu biểu chép trong Đại Nam thực lục và Đại Nam liệt truyện.
Ở văn bia chùa Thiên Mụ (Ngự kiến Thiên Mụ tự) lập năm 1715, chúa viết[25]:
“Quốc vương Nguyễn Phước Châu, nối dòng Tào Động chánh tông, đời thứ 30, pháp danh Hưng Long, hiệu Thiên Tung Đạo Nhân, tạo bài minh của bia (bi minh) chùa Thiên Mụ, Thuận Hóa.
Từng nghe,
Rỗng lặng không hình, đạo cao khó tả
Phật tánh vốn không, gốc thường thanh tịnh,
Các tướng đều đủ mà giác chiếu tràn đầy,
Pháp chẳng hai đường, lý về một nghĩa,
Trời cũng xoay vần, đất không nội ngoại,
Đất nước gió lửa, nối tiếp bốn vòng,
Phật tánh lặng soi, thể thường trong suốt,
Biển thể tánh Phật làm cõi kim sắc.
Trong cõi kim sắc có biển hương thủy,
Trong biển hương thủy có quang minh tạng, lại có rừng báu hương hoa man mác cùng khắp cõi Phật, số nhiều như cát sông Hằng tỏ rõ một quang minh tạng. Ở được cõi quang minh tạng này phải có nhân lành y nơi chánh báo. Biết được nhân nầy thì ba thân không sai biệt, trời đất bằng nhau, bốn hướng chẳng có gần xa, tánh Phật, tánh chúng sanh đều chảy vào biển trí Tỳ-lô-giá-na cả.
Người có huyết mạch, đất có đồi cao. Phía Nam biển lớn là khu vực nước Việt ta. Núi rừng trùng điệp ở Tây Nam, biển cả mênh mông ở Đông Bắc, đầm vây cát vàng vạn dặm. Nước mãi an ninh, biển im chập chùng cây mọc trời luôn xanh biếc, lương thực dồi dào, ruộng đất màu mỡ. Ngũ tài phiên thứ, tam thế cao tư, cọp giống tây ngu, chim như phượng đẹp. Phong tục xưa nay đẹp đẽ, vui thấy dân hiền, góp tánh lành làm gốc, thay lòng thiện cư xử ở đời.
Sống theo đạo Nho, chuộng đạo Phật vì chánh trị không thể chẳng làm nhơn, tin đạo kính thầy, lấy nhân quả mà nghĩ điều gieo phước. Nhờ vậy, biên giới được thanh bình, thân tâm an ổn.
Thế mới biết, ở nhà sang đâu bằng phương trượng, cỡi ngựa hay đâu bằng chống tích trượng, áo gấm chói đời không giống cà sa, vàng ngọc đầy nhà cũng thành trống rỗng. Ăn đồ ăn há sánh được mùi thơm hương tích. Nghe nhạc hay đâu bằng tiếng kệ câu kinh độ thế. Đây là lúc nên tìm về vườn cũ mừng vui. Đời đạo song hành, đều không trái lẽ.
Kính nhớ năm xưa, từng mời được Hòa thượng Đường đầu húy là Đại Sán, tự Thạch Liêm, nguyện lực sâu dầy, lòng thương khắp cõi, y báo không cùng, đạo khởi ba thừa, tu hành có tôn chỉ, như cây có cội, nước có nguồn; Ngài truyền tâm giới, gốc ở Chiết Tây. Ta nhờ ơn ‘đánh’, ‘hét’ mỗi mỗi như nước hòa sữa, phó tâm ấn như rót mật.
Những mong nối gót Linh Sơn, nghĩ thẹn cho mình không sáng, canh cánh bên lòng, chỉ mong gìn giữ đạo cao vòi vọi. Muốn đem hết tài ba chưa hẹn được ngày sau gánh vác. Đắc pháp nhiều năm, nguyện xây lầu ngọc cành vàng, bèn chọn đất vùng thượng du Thuận Hóa, núi loan đỉnh phượng phân chia, xóm Tây Kim Long, băng ruộng qua đường. Kết rèm bao bọc, đất nhô cao ráo, phía trái dòng sông uốn lượn, đất đẹp trong lành. Theo nền cũ ngôi thiền quan Thiên Mụ, xây cảnh Phật mới ở cõi trời Nam, quyên góp ngọc ngà, chẳng tiếc vàng bạc, hễ luật nước đã truyền, đất gỗ công quân chẳng sợ lao nhọc, đến cùng lực có toàn dân giúp sức, chẳng sợ ngày tháng kéo dài. Công trình lớn lao, nhờ có Phó Giám niên, cùng nhau tuyển quân, chọn số ít trong số đông, chọn người giỏi trong số ít. Tùy theo sức thưởng công, tin ở lòng thành, ân oai đều giống nhau. Thợ giỏi thi công, tính một năm tròn.
Từ cửa núi vào có điện Thiên Vương, điện Ngọc Hoàng, Đại Hùng bảo điện, nhà thuyết pháp, lầu tàng kinh. Ha bên là lầu chuông trống, điện thập Diêm Vương, nhà vân thủy, nhà ăn (nhà trai), nhà thiền, điện Đại Bi, điện Dược Sư, tăng liêu, thiền xá không dưới vài chục sở.
Sau vườn Tỳ-da, bên trong là phương trượng và các chỗ, không dưới vài chục sở, đều sáng chói huy hoàng, khiến người xem phải bàng hoàng kinh hãi. Thật là thế giới sắc vàng, một tòa quang minh vậy.
Tôi vui mừng không xiết, rộng làm Phật sự, ở nơi vườn Tỳ-da một tháng, ngày thường ngắm cảnh, lên đến lầu kinh, tâm bỗng nhiên thư thái. Tựa lan can, phóng tầm mắt ở phương Đông, mặt trời treo trên không, chiếu khắp muôn loài vạn vật, ở phương Nam, núi bủa chập chùng, lặng treo trên đầu thảm mây trắng không cùng tận, nhiều màu sắc không tả xiết, bao vẻ đẹp khởi lên của thời văn minh thịnh trị. Phương Tây tùng xanh liễu biếc như chiếc bình phong bảo hộ cửa thiền. Phương Bắc vọng về Chính phủ (phủ chúa Nguyễn).
Lớp lớp tre xanh ẩn hiện nhiều khu vườn danh tiếng. Thoang thoảng, gió nhẹ phe phất muôn ngàn cửa ngõ. Trước mắt, cảnh đẹp họa sĩ khó tưởng. Chùa Viện trang nghiêm, nhiều người chiêm ngưỡng.
Dùng sáu thứ thành tựu, để mong được lưu truyền muôn thuở. Bỗng ký ức nổi lên pháp số, từ một sát na đến một lạc sát, từ một lạc sát đến câu kỳ, từ một câu kỳ đến một tăng kỳ, từ một tăng kỳ đến một cao kỳ, từ một cao kỳ đến bất khả chuyển, không ngăn không ngại, không thiếu không cùng. Thành trụ hoại không chẳng chống đối, tuyệt diệu vô cùng há chẳng sâu xa lắm.
Tóm lại, cái sâu xa đó quy về thánh đế, chúng được quang minh rộng lớn, giúp đất nước thanh bình, an vui bền vững, vua quan được thọ mạng lâu dài như tùng bách. Cảnh bốn phương thanh bình, vạn dân lạc nghiệp lộ được nuôi dưỡng, vỗ bụng an vui. Phủ vững như sắt, vang tiếng đàn cầm, hữu vi lại nhập vào pháp hóa vô vi vậy. Từ nay về sau kế tục tiếp nối, lấy pháp pháp được truyền thừa, nối đèn đèn được sáng mãi.
Thầy ta đã mất, mong nhớ cao tăng, từng chống tích trượng vượt qua núi ải, dùng chiếc thuyền từ băng qua biển Việt, cùng tuyên diệu kệ, ca tụng Tông phong. Nghĩ người thời ấy, mộng sâu chưa tỉnh, đưa chiếc búa lên mà khai phá núi đẹp, ngăn dòng nước xiết, lau bụi trần nơi gương báu, cùng nhau lợi ích, tham học trời người.
Nguyện họ Nguyễn, nội ngoại xa gần, đều lên pháp hội, luôn làm chứa phước, thường hộ chùa chiền, nội ngoại thân thích đều chứng bồ đề. Tôi được bài ca (tụng) an lạc, thường gặp năm được mùa, nông thương nhiều của, quân mạnh nước giàu, an cư lạc nghiệp. Nay đẹp biết bao!
Quần thần thưa thỉnh, xin bày tỏ mấy lời cho chí đạo được tỏ rõ mà tâm nguyện không mỏi mệt, nên phóng bút ghi bài minh sau đây:
Minh rằng:
Đất Việt phương Nam chừ núi sông xinh đẹp,
Ngôi chùa tráng lệ chừ trời chiếu cửa thiền.
Tự tánh thanh tịnh chừ suối tuôn mật ngọt,
Đất nước an ổn chừ bốn cảnh thanh nhàn.
Pháp hóa vô vì chừ Nho – Phật đồng hàng,
Viết lời cảm khái chừ nhân quả xoay vần,
Dựng bia lưu dấu chừ lòng thành còn mãi.
Lập ngày tốt, tiết đầu đông (tháng 10) năm Ất Mùi, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715)”.
Bài văn bia thể hiện trình độ thâm hiểu Phật pháp của Minh Vương Nguyễn Phúc Chu thật thậm thâm vi diệu, lời văn tao nhã, đượm chất thiền môn, thật xứng đáng được gọi là người nối dòng pháp thứ 30 của tông Tào Động. Cũng từ lời văn trong tấm bia này, chúng ta biết thêm một số nguyên nhân dẫn đến việc Minh Vương phát tâm đại trùng tu chùa Thiên Mụ[26]: chúa vốn dòng dõi nhà Nho, nhưng lại mộ đạo Phật, ở ngôi báu đời sống vương giả, ăn mặc sung sướng, nhưng cảm thấy không hạnh phúc bằng cuộc sống đạm bạc, thanh cao trong chiếc cáo ca sa của nhà tu hành. Không những thế, chúa còn nhớ về bổn sư là Hòa thượng Thạch Liêm – Thích Đại Sán xưa kia đã qua đất Thuận Hóa truyền giới tại chùa Từ Lâm, rồi ở chùa Thiên Mụ, sau đó về lại Trung Hoa, mất năm 1702, chúa lại càng thương tiếc không nguôi. Đồng thời, chúa cũng muốn xây cất thêm một ngôi Tam Bảo, nên quyết định sửa sang Thiên Mụ trở thành một cõi Phật ở trời Nam. Với ý nguyện như thế, sau khi chọn được kiểu đất đẹp là ngọn đồi Hà Khê, chúa bèn ra lệnh xây cất, chẳng quản lao nhọc, không sợ tốn thời gian, chọn người tinh giỏi, giao Chưởng cơ Tống Đức Đại quản đốc… Công việc được hoàn thành trong khoảng 1 năm, chúa cho làm bài minh hầu ca ngợi cảnh chùa và đánh dấu sự kiện trọng đại này.
Trước đó mấy năm (1710), cũng tại chùa Thiên Mụ, Chúa Minh Vương còn cho đúc một đại hồng chung nặng 3.285 cân, trên chuông có đề:
“Đại Việt Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu, Tào Động Thượng Chánh Tông tam thập đại, Pháp danh Hưng Long chú tạo hồng chung. Trọng tam thiên nhị bách bát thập ngũ cân, nhập vu, ngự kiến Thiên Mụ Thiền Tự, vĩnh viễn cung phụng Tam Bảo. Duy nguyện phong điều võ thuận, quốc thái dân an, pháp giới chúng sanh, đồng viên chủng trí. Vĩnh Thạnh lục niên, tuế thứ Canh Dần tứ nguyệt Đản nhật”.
Nghĩa là: Quốc Chúa nước Đại Việt là Nguyễn Phúc Chu, nối dòng Tào Động Chánh Tông đời thứ 30, pháp danh Hưng Long, đúc đại hồng chung này nặng 3285 cân, an trí ở Thiên Mụ Thiền Tự để vĩnh viễn cung phụng Tam Bảo. Cầu nguyện gió hòa mưa thuận, nước thịnh dân an, chúng sinh trong pháp giới đều thành tựu đại viên chủng trí. Năm Vĩnh Thịnh thứ sáu, ngày Phật đản tháng tư năm Canh Dần.
Ngoài những bài văn và ngự bút của Minh vương Nguyễn Phúc Chu gắn liền với chùa Thiên Mụ trên văn bia, chuông khánh, chúng ta còn biết thêm một áng văn chương khác của ông rất nổi tiếng, đó là “Lời tựa” cuốn Hải ngoại kỷ sự (Hải ngoại kỷ sự tự) được viết năm 1696[27]:
“Nước Đại-Việt nhỏ nhoi, tựa tựa núi day mặt ra biển, phá rừng bụi, đuổi hùm voi để định chỗ ở, trải nay đã 13 đời. Quả nhơn ngu tối, tuổi trẻ nối ngôi, chỉ e giềng mối nghiêng đổ để thẹn cho người trước; hằng ngày cùng vài ba thần hạ, bàn luận đạo trị nước an dân; đã bao năm lo sắp đặt nội trị, ngoại an, nhưng chính lệnh vẫn chưa sửa sang, nhân dân vẫn chưa no ấm, ấy là tội lớn của quả nhơn vậy.
Gần đây, xét đọc sách xưa, biết rằng đạo trị nước lấy ‘được người’ làm cốt yếu. Nhà Tần được Bá-Lý-Hề ở nước Ngu, nhà Tấn được Do-Dư ở nước Nhung, được Phi-Báu, Công-Tôn-Chi ở nước Sở, đều lập nên nghiệp bá. Dùng được kẻ hiền thì nước trị, lẽ dĩ-nhiên từ xưa, nhưng quả-nhơn ngày nay, cảnh ngộ lại rất khó. Quả-nhơn không tiếc tước lộc, không hà tiện áo mão cân đai, hầu hết thảo-dạ hiền tài đã vui lòng ra giúp. Ngặt vì nhơn tài xứ nầy, sinh nơi biên viễn, nghe thấy hẹp hòi, dùng làm chức nọ quan kia, may cũng làm tròn nhiệm-vụ; còn như cầu người đạo cao đức trọng, đủ tài kinh luân, lời nói việc làm, khá nêu sư-pháp cho muôn thuở, những bậc ‘đại hữu vi’ như thế, trừ phi Trung-hoa, quê hương của Thánh-hiền Phật-tổ, ắt chẳng nơi nào có vậy. Theo lễ, vời kẻ hiền chẳng vượt ra ngoài quốc-cảnh, mà Trung-hoa Đại-Việt, nơi ở lại cách xa nhau; nếu chẳng phải kẻ có kiến thức siêu phàm, chẳng bị lưới đời ràng buộc, thì làm sao mời được. Than ôi, cầu được kẻ hiền đã khó, cầu được bậc thầy lại càng khó. Trường-thọ Bản-sư Lão Hòa-Thượng, ta từ ngày đương ở sừ-vị (đương làm thế tử) đã nhiều năm ngưỡng mộ; Tiên-Vương (tức Nghĩa-vương) đưa thư rước mời hai lần không qua. Mùa thu năm Giáp-Tuất, ta muốn thụ Bồ-tát-giới-pháp, nối chí Tiên-Vương sai người qua rước, may được Hòa-Thượng nhận lời. Từ mùa xuân năm Ất-Hợi Hòa-Thượng qua đến nơi, lưu lại đến mùa hạ năm Bính-Tý, được gần gũi hôm sớm, cung dưỡng chuyện trò; sau những lúc giảng luận thiền-kinh, còn chỉ vẽ luân thường cương kỷ từ việc lớn đến việc nhỏ, rạch đường chỉ nẻo, lời lẽ rõ ràng; khác nào dắt người từ trong chỗ tối tăm, đem ra nơi thanh-thiên bạch-nhật; giúp ích cho Quả-nhơn trong việc chính-trị nhiều biết chừng nào. Hòa-thượng trích lục một hai việc, chép ra thành sách, nhan đề Hải-ngoại kỷ-sự; lúc trở thuyền về nước đưa cho ta xem và khiến ta viết bài tựa. Tự xét học hành ít ỏi, dám đâu càm bút viết văn; hoặc giả, vì sách chép việc nước ngoài, lạ lùng tai mắt, sợ độc-giả nghi là hoang đường, nên muốn ta chứng-thực một đôi lời, hầu được phụ chép sau kiệt-tác của Đại-hiền vậy. Còn về phần Phật-pháp văn-chương, tài tình đạo đức, thầy ta khai hóa hơn 30 năm, viết sách hơn 20 loại, lưu hành đã lâu, đã có định giá, lời tán dương của ta, nào có tăng ích được gì đâu. Tuy nhiên, đại-thiên thế-giới, bụi tro hạt cát đều do biển Hương-thủy kết thành; trong những ngày Quả-nhơn cùng với Lão Hòa-Thượng ngao-du trong Hương-thủy Hoa-nghiêm, thì chẳng có gì phân biệt nội ngoại. Nay đã cùng nhau cách xa đại-hải, ở Quảng-đông mà chép việc Đại-Việt, thì gọi là Hải-ngoại Kỷ-sự cũng đúng lắm rồi.
Giáp tý (tức Khương-hy năm thứ 35, 1696) bổ-nguyệt (tháng 5), Đại Việt Quốc-vương Nguyễn-Phúc-Châu, thọ Bồ-tát-giới-đệ-tử, Pháp danh Hưng-Long, Kính lễ viết tại Tĩnh-danh phương-trượng ở Tây-cung Giác-vương Nội-viện”.
Lời tựa thể hiện tinh thần cầu thị nhân tài, mà đặc biệt là thỉnh nguyện tăng tài mở giới đàn, truyền chánh pháp. Một điểm đáng lưu ý là Nguyễn Phúc Chu viết “Hải ngoại kỷ sự tự” khi mới 22 tuổi mà lời văn đã chững chạc, khiêm cung, nhưng cũng không kém phần triết lý, nói lên phần nào tầm kiến văn sâu rộng và cái tâm đáng quý của một bậc quân vương lãnh đạo vùng đất đai rộng lớn xứ Đàng Trong thời bấy giờ. Như ta biết, Hải ngoại kỷ sự được Hòa thượng Thạch Liêm viết trong khoảng thời gian 2 năm khi Ngài lưu ngụ tại vùng Thuận Quảng (1695-1696). Qua sự nhận xét, đánh giá của một tăng sĩ nước ngoài như Thạch Liêm, chúng ta phần nào nắm bắt được sinh hoạt Phật giáo ở nước ta những năm cuối thế kỷ 17, đồng thời hiểu thêm về phong tục tập quán, nếp văn hóa và những cảnh đẹp của các ngôi già lam, danh thắng thời xưa hiện lên bởi ngòi bút tài hoa của tác giả.
Còn bàn về văn chương của Nguyễn Phúc Chu, được chép lại thông qua Hải ngoại kỷ sự, thì ngoài “Lời tựa” ra, chúng ta không thấy có một tác phảm nào của ông được chép đến, rất có thể lúc này ông còn nhỏ tuổi, sáng tác chưa nhiều. Tuy nhiên, nếu ta coi một số đoạn đối đáp có tính văn chương hoặc mang tính chất văn bản của Nguyễn Phúc Chu như là một “sáng tác” của ông được biên tập lại qua ngòi bút Thạch Liêm, thì lời thưa với Hòa thượng Thạch Liêm dưới đây có thể tham khảo[28]:
“Từ ngày Lão-Hòa-thượng đến đây, trong nước mang ơn được tám chữ ‘phong điều vũ thận, quốc thái dân an’; vả lại, các năm trước thuyền ngoại-dương đến buôn, một năm chừng sáu, bảy chiếc, năm nay số thuyền lên đến mười sáu, mười bảy chiếc, trong nước nhờ đó tiêu dùng được dư dũ; ấy đều nhờ phước đức Hòa-thượng che chở vậy. Chưa biết lần nầy Đạo-giá hoàn-sơn, còn khứng một phen trở lại chăng? Nửa năm náo nhiệt, một phút lạnh lùng, khiến người khôn cầm giọt lụy. Đạo-giá đã không khứng lưu, cúi xin lựa trong hàng tùy tòng cho lưu lại hai người; ngõ được cùng ta hôm sớm bàn hoàn, cũng như trông thấy mặt thầy vậy. Lão-Hòa-thượng mọi lần sai bảo, ta đều vâng theo; nay ta sở-nguyện có bấy nhiêu, xin Hòa-thượng hãy chiều lòng ưng thuận”.
Và một đoạn trích khác trong Hải ngoại kỷ sự[29], thể hiện tâm đạo và chí hướng của Nguyễn Phúc Chu đối với Phật pháp, thậm chí ông từng có ý định sẽ xuất gia theo Phật, “cạo đầu làm sãi”:
“Nỗi mừng ngày nay tức là nỗi buồn ngày mai; ngày nay gặp gỡ, ngày mai trời biển hai phương, muốn gặp Từ-nhan, chưa biết ngày nào được gặp. Chỉ mong, hằng khiến Tùy-Tăng độ hải, ngõ hầu như thấy Đạo-dung. Hoặc giả, chùa cũ công việc viên mãn rồi, chẳng nài xông pha, Từ-hàng lại trở qua một phen, ấy là trong mong sự bất-ngờ vậy. Ta cũng ở ngôi vài ba năm nữa, chờ Thế-tử trưởng thành, có thể trông coi việc nước, chừng ấy sẽ chọn người phụ bật hiền lương, rồi truyền ngôi cho Thế-tử. Ta sẽ cạo đầu làm sãi vậy. Việc lớn chung-cục của ta, đã mong nhờ Lão-Hòa-Thượng chỉ rõ, biết rằng kiếp trước là Tăng-nhơn nước Đại-minh, ngẫu-nhiên lạc bước đến đây; há khứng trọn đời đắm đuối trong vòng thanh sắc phú quý mà mờ quên nguồn gốc của mình hay sao”.
Đó là mảng văn chương của Minh Vương liên quan đến Phật giáo. Song song đó, trong quá trình trị quốc an dân, Nguyễn Phúc Chu chắc hẳn còn có một số sáng tác thuộc các lĩnh vực khác nhau. Riêng về chiếu thư liên quan đến việc ban hành sắc lệnh hoặc khuyến cáo quần thần, chúng ta thấy Đại Nam thực lục và Đại Nam liệt truyện còn lưu lại. Chẳng hạn như lời Minh Vương trách Nguyễn Cửu Vân, một tướng giỏi nhưng đôi khi lại mắc sai lầm, vì có giai đoạn ông thường bắt nhân dân làm những việc riêng phục vụ cho bản thân mình. Chúa đã trách[30]:
“Khanh con nhà tướng, chế ngữ một phương, sao khong nghĩ lấy sự vỗ về làm trọng, mà chỉ mưu lợi cho mình? Những dân xiêu tán mới về kia, thất sở đã lâu, nay lại sai bắt quấy nhiễu thì họ chịu sao nổi? Xưa Tiêu Hà[31] giữ đất Quan Trung, Khấu Tuân[32] giữ đất Hà Nội đều hay vỗ yên trăm họ, giúp nên đế nghiệp, khanh nên coi đó mà gắng lên”.
Hoặc thư chúa gửi Nguyễn Cửu Vân và Trần Thượng Xuyên như một phương châm chỉ đạo chiến lược trong quá trình ổn định vùng đất Chân Lạp, dẹp yên Nặc Thâm, vỗ về Nặc Yêm[33]:
“Nặc Yêm đã theo mệnh xưng thần, nên phải an ủi dung nạp. Nhưng Nặc Thâm là con Nặc Thu, mà Nặc Thu không bỏ triều cống, sao nỡ đem quân đánh được. Bọn khanh nên xét kỹ tình hình bên địch, tùy cơ ứng biến, khiến cho Nặc Thâm bỏ mối thù oán, mà Nặc Yêm cũng được bảo toàn. Đó là thượng sách”.
Sau đó, còn có hai văn bản khác tương tự của chúa gửi Nguyễn Cửu Phú và Trần Thượng Xuyên trong trận chiến cũng như khi đánh thắng Chân Lạp được biết đến như:
“Việc ở ngoài biên khổn, ủy cả cho hai khanh, phải xét nên đánh hay nên giữ, sao cho yên nơi phiên phục”[34].
“Việc ngoài biên khổn là ở tướng quân định đoạt, nên làm sao cho ra trận thì quyết thắng, chế phục được người xa, còn việc xin lập vua mới thì đợi sau sẽ bàn”[35].
Nhờ những chỉ đạo kịp thời và hợp lý trên, mà loạn Nặc Thu, Nặc Thâm đã được dẹp yên. Riêng đối với Nặc Thu, chúa còn có 2 bức thư khuyên nhủ mà ta tìm được trong Đại Nam thực lục. Đây có thể được xem là hai sáng tác thuộc mảng văn chương của Minh vương Nguyễn Phúc Chu. Văn bản thứ nhất được viết năm 1713, khi chúa biết Nặc thu có ý làm phản[36]:
“Trời đất đạo công che chở, muôn vật đều được sống vui. Đế vương lượng cả bao dung, bốn bên giữ nghĩa thân mục. Duy nước Chân Lạp nhà ngươi thực là một nước phên dậu, từ triều trước đã vâng mệnh lớn, từng phen phụng cống trước sân rồng; tới nay ta nối giữ cơ đồ, lại tới xưng thần nơi cửa ngọc. Như thế là sợ uy trời mà giữ nước, chỉ người trí giả mới hay. Ta vốn quý lòng thành mà khen việc tốt, ban cho phẩm vật, để tỏ ơn thêm. Ngươi nên thể lòng ta, đừng quên thần phục, khiến biên cảnh nhờ đó mà tắt mối can qua, cho sinh dân nhờ đó mà yên vui đồng ruộng, trong ngoài được vô sự đời đời”.
Văn bản thứ hai được viết năm 1715, hầu dụ yên Nặc Thu, phong Nặc Yêm làm vua nước Chân Lạp[37]:
“Đạo trời công che trùm muôn vật, mở hơi dương cuối lúc âm hàn. Đạo vua hay ngăn giữ man di, thi đức nhân sau khi chinh phạt. Nước Chân Lạp của ngươi là thuộc quốc của ta. Trước liệt thánh đã gia ơn nuôi nấng, nay ta lại tỏ đức vỗ về. Vừa đây ngươi đem lòng phản trắc, tối nghĩa thủy chung. Cho nên ta sai tướng vâng lời, dấy binh hỏi tội. Ngươi đã trốn vào rừng rú, không đất nương mình. Sao chẳng biết chữa lại lỗi xưa, để đón lấy điều lành sắp tới? Mà lại cá chuối chầu sao, hãy còn thiếu lễ, chuột con chắp tay, chưa thấy thực tình. Lại nhân gia giáo không nghiêm, đến nỗi trong nhà gây loạn. Vả ta đối với Nặc Yêm, ơn sâu ấp trứng, đức rộng chở che, bất đắc dĩ phải dùng binh để bảo toàn thôi. Huống chi ngươi với Nặc Yêm, kết nghĩa nhân gia, tình như phụ tử, giữ được vui vẻ vợ con. Ta đã sách lập Nặc Yêm làm vua nước ngươi, ngươi nên nhường ngôi, cho yên nhà yên nước, yên cả nhân dân. Nếu hay đến chầu cửa khuyết, ta sẽ lấy lòng thành hậu đãi. Ví bằng đường sá xa xôi không thể đi được, thì cũng cho tùy thích mà thôi”.
Như vậy cả trong việc đối ngoại, Nguyễn Phúc Chu đã rất khôn khéo, lời văn vừa vỗ về vừa không kém phần răn đe, đưa ra những quyết định dứt khoát, đúng đắn, qua đó tỏ rõ thái độ của một vị quân vương sáng suốt đối với việc chống giặc xâm lược, đồng thời mở mang bờ cõi, thật xứng đáng với mỹ hiệu Minh Vương của ngài.
4. TÓM KẾT
Hơn 30 năm trị vì xứ Đàng Trong (1691-1725), bên cạnh sự nghiệp ổn định biên cương, mở mang bờ cõi, phát triển đất nước, nâng cao đời sống tinh thần và vật chất cho nhân dân, Minh Vương Nguyễn Phúc Chu còn để lại cho hậu thế những áng thi ca, đối liễn, văn chương đầy giá trị. Xét trên lĩnh vực văn học, chúng ta hoàn toàn có thể xem ông là một tác gia xứng đáng được ghi tên tuổi vào “bảng vàng” của nền văn học sử Việt Nam thế kỷ 17-18.
Ở trên, chúng tôi đã điểm qua một số sáng tác văn học của Minh Vương. Chắc chắn rằng đó chỉ là một con số rất nhỏ mà chúng ta tìm thấy được trong vô số những tác phẩm của ông, một người mà Bảng nhãn Lê Quý Đôn nhận xét: “hiếu học, chữ tốt, có tài lược văn võ”[38], như vậy đã là quá đủ để chúng ta thẩm định về tài năng của vị Quốc Chúa này.
Hy vọng trong tương lai, chúng ta sẽ còn phát hiện thêm nhiều đóng góp của Minh Vương Nguyễn Phúc Chu trên lĩnh vực văn học qua các tác phẩm đặc sắc, tồn tại vượt thời gian, như áng văn bia chùa Thiên Mụ, lời đề tựa Hải ngoại kỷ sự, đối liễn tặng các ngôi chùa cổ, thơ vịnh cảnh, khen tặng quần thần,… Tất cả sẽ tô điểm và làm phong phú hơn cho vườn hoa văn học Việt Nam tỏa hương khoe sắc với đời.
TPHCM, tháng 08/2011.
* Đại đức, Phó Thư ký Ban PGVN, VNC Phật học Việt Nam.
[1] Đại Nam thực lục, tập 1, NXB. Giáo dục, H, 2007, tr. 133.
[2] Đại Nam liệt truyện, tập 1, NXB. Thuận Hóa, Huế, 2005, tr. 30-32.
[3] Đại Nam liệt truyện, tập 1, NXB. Thuận Hóa, Huế, 2005, tr. 179-180.
[4] Thiên Túng Đạo Nhân: đạo hiệu của Nguyễn Phúc Chu (Hiển Tông Hiếu Minh Hoàng Đế).
[5] Thương Hạo: bốn ông già ở núi Thương Sơn là Đông Viên công, Giác Lý tiên sinh, Ỷ Lý tiên sinh, Hạ Thạch công. Để tránh chính sự nhà Tần bạo ngược, họ vào núi Thương Sơn ở ẩn; rầu tóc đều bạc trắng.
[6] Hán thần: chỉ Trương Lương, mưu thần của Hán cao tổ, sau đi tu tiên.
[7] Quê Trần Đình Ân khi ấy còn thuộc Quảng Bình.
[8] Hiển Tông Hiếu Minh Hoàng Đế: tức là Minh Vương Nguyễn Phúc Chu.
[9] Nguyên văn bài minh là: “Ưu ưu bát nhã / Đường đường phạm thất / Thủy nguyệt ưu du / Giới trì chiến lật / Trạm tịch cô kiên / Trác lập khả tất / Thị thân bản không / Hoằng giáo lợi vật / Biến phúc từ vân / Phổ chiếu tuệ nhật / Chiêm chi nghiêm chi / Thái sơn ngật ngật”. Nguyễn Lang dịch: “Cao vút trí tuệ / Phạm hạnh vun trồng / Giới đao một lưỡi / Trăng nước thung dung / Ngồi đứng một thân / Trong lặng kiên cường / Hoằng pháp lợi người / Quán thân vốn không / Mây từ che khắp / Trời tuệ chiếu cùng / Ngắm đi ngắm đi / Thái sơn oai hùng” (Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, NXB. Văn học, 2008, trang 591).
[10] Thích Hải Ấn & Hà Xuân Liêm, Lịch sử Phật giáo xứ Huế, NXB. Văn hóa Sài Gòn, 2006, tr. 140-142.
[11] Thích Hải Ấn & Hà Xuân Liêm, Lịch sử Phật giáo xứ Huế, sđd, tr. 105.
[12] Sđd, tr. 106.
[13] Trần Đình Sơn, “Thiên Túng Đạo Nhân Nguyễn Phước Chu - một tác gia văn học, thế kỷ 17I” trong Nguyệt san Giác Ngộ, số 184, tháng 7-2011, tr. 79-85.
[14] Cao Xuân Dục (Hoàng Văn Lâu dịch), Quốc triều sử toát yếu, NXB. Văn học, H, 2002, tr. 41-42.
[15] Sđd, tr. 45.
[16] Đại Nam liệt truyện, tập 1, sđd, tr. 134.
[17] Đại Nam liệt truyện, tập 1, sđd, tr. 159.
[18] Cấp Ảm: tên tự là Trường Nhu, người Bậc Dương đời Hán, tính cương trực, chuộng khí tiết. Khi làm Thái thú chính sự thanh liêm, trong hạt được yên tĩnh và rất thịnh vượng, cuối cùng làm thái thú ở Hoài Dương cho đến lúc chết.
[19] Đại Nam liệt truyện, tập 1, sđd, tr. 181.
[20] Sđd, tr. 158.
[21] Sđd, tr. 181.
[22] Đại Nam nhất thống chí, tập 2, NXB. Thuận Hóa, H, 2006, tr. 72.
[25] Nguyễn Hiền Đức, Lịch sử Phật giáo Đàng Trong, tập 1, NXB. TPHCM, 1995, tr. 31-34.
[26] Hà Xuân Liêm, Chùa Thiên Mụ. Huế, NXB. Thuận Hóa, 1999, tr. 108-109.
[27] Thích Đại Sán, Hải ngoại kỷ sự, Viện Đại học Huế, 1963, tr. 9-10.
[28] Hải ngoại kỷ sự, sđd, tr. 126.
[29] Hải ngoại kỷ sự, sđd, tr. 135.
[30] Đại Nam thực lục, tập 1, sđd, tr. 127.
[31] Tiêu Hà: bề tôi của vua Hán Cao Tổ.
[32] Khấu Tuân: bề tôi của vua Quang Vũ nhà Hậu Hán.
[33] Đại Nam thực lục, tập 1, sđd, tr. 127.
[34] Sđd, tr. 131.
[35] Sđd, tr. 132.
[36] Sđd, tr. 128-129.
[37] Sđd, tr. 132.
[38] Viện Sử học (dịch), Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục. Hà Nội: NXB. Văn hóa Thông tin, 2007, tr. 79.
Bình luận bài viết