Thông tin

HÒA THƯỢNG KHÁNH HÒA VỚI HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO TĂNG TÀI

 

TS. DƯƠNG THANH MỪNG*

 

Có thể thấy rằng, ngoài những nhân tố khách quan bên ngoài, sự khủng hoảng và suy yếu của Phật giáo Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX chủ yếu bắt nguồn từ các nguyên nhân như tăng đồ thất học, tăng già suy vi, tăng đoàn rời rạc...

Hòa thượng Khánh Hòa (1877-1947), người đã dành trọn tâm huyết và cuộc đời mình cho việc kêu gọi giáo dục và đào tạo tăng tài. Và cũng chính Ngài là người đã đặt nên viên đá tảng đầu tiên cho sự ra đời và phát triển của nền giáo dục tân học Phật giáo Việt Nam cũng như đào tạo nên nhiều thế hệ tăng tài vững chãi về mặt kiến thức Phật học lẫn thế học để họ tham gia vào các hoạt động Phật sự, thế sự ở cấp trung ương và ở nhiều địa phương trên cả nước. Đó là các chư vị: Thiện Hòa, Thiện Hoa, Hành Trụ, Hiển Không, Quảng Liên, Huyền Quang, sư bà Như Huệ... Không chỉ đi tiên phong trong lĩnh vực đào tạo tăng tài, ngài còn là tấm gương sáng đầy mẫu mực của một tu sĩ luôn hết lòng vì Đạo pháp. Dù phải trải qua nhiều gian lao, thử thách, gặp không ít rào cản trên con đường vận động chấn hưng Phật giáo, nhưng ngài đã luôn vững tin vào sự trường tồn của Đạo pháp để tô điểm thêm những nét đẹp trong bức tranh lịch sử Phật giáo Việt Nam.

Bối cảnh ra đời của phong trào chấn hưng Phật giáo ở Nam kỳ

Bước sang đầu thế kỷ XX, cũng giống như thực trạng chung của Phật giáo trong cả nước, Phật giáo miền Nam bộc lộ nhiều dấu hiệu khủng hoảng và suy yếu sâu sắc. Vấn đề này đã được các tăng ni, Phật tử, các nhà trí thức phản ánh thông qua nhiều bài viết trên báo chí đương thời1, cụ thể:

Cư sĩ Khánh Vân với bài viết “Phật giáo ở nước ta vì đâu phải chịu cái hiện trạng suy đồi” đã chỉ ra rằng: “Có kẻ mượn Phật làm danh, cũng ngày đêm hai buổi công phu, thọ trì, sóc vọng, cũng sám hối như ai,... lại thủ dị cầu kì, học thêm bùa ngải, luyện roi thần, làm bạn với Thiên Linh cái, lúc ông lên, lúc bà xuống, ngáp ngắn ngáp dài, thư phù niệm chú, gọi là cứu nhân độ thế, nhưng lợi dụng lòng mê muội của chư thiện tín mở rộng túi tham quơ quét cho sạch sành sanh... Cái hiện trạng như thế bảo sao Phật giáo chẳng suy đồi2. Với Tì kheo Thành Đạo, sự suy yếu của Phật giáo bắt nguồn từ hai nguyên nhân cơ bản là Phật giáo không phổ thông và tăng đồ thất học. Do vậy mà “có người chưa rõ giới tướng đã khai kì làm vị hòa thượng. Có kẻ chưa thuộc luật Sa di mà đã thụ làm tì khưu3. Trong quá trình vận động chấn hưng, Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học cũng đã chỉ ra những nguyên nhân cơ bản đã làm cho Phật giáo Việt Nam suy yếu là vì “không có Thích học đường và kinh sách đủ cho tăng đồ theo học, cũng không có Phật học tạp chí để dịch kinh chữ Hán ra chữ quốc âm cho tín đồ xem đặng hiểu đạo lí4. Với Hội Lưỡng Xuyên Phật học, Phật giáo suy đồi vì từ thời Lê đến thời Nguyễn, Nho giáo vươn lên chiếm vị trí độc tôn còn đạo Phật tựa như một đạo phụ. Vì thế mà “Phật pháp suy đồi, tăng đồ trụy lạc, chốn tòng lâm ngày nay không có cổ phong trật tự, không nhất thống5.

Đặc biệt là ở Nam Bộ, từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, do nhiều nguyên nhân về kinh tế, văn hóa, xã hội và tư tưởng đã xuất hiện một số tôn giáo mới, hoặc bắt nguồn từ Phật giáo, hoặc từ tín ngưỡng dân gian, hoặc đi ra từ Tam giáo như: Bửu Sơn Kì Hương do ông Đoàn Minh Huyên sáng lập năm 1849; Tứ Ân Hiếu Nghĩa do ông Ngô Lợi lập năm 1867; Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam do ông Nguyễn Văn Bồng sáng lập đầu thế kỷ XX; đạo Minh sư và các nhóm Ngũ chi Minh đạo mở rộng ảnh hưởng vào đầu thế kỷ XX; đạo Cao Đài do các ông Ngô Minh Chiêu, Lê Văn Trung, Phạm Công Tắc thành lập năm 1926… Sự xuất hiện của các tôn giáo mới này đã tạo ra cho Phật giáo Việt Nam không ít thách thức trong việc khẳng định vai trò, vị thế của chính mình. Để có thể tiếp tục đứng vững và phát triển, Phật giáo Việt Nam lúc này buộc phải có sự cải tổ, điều chỉnh nhằm thích ứng với những biến đổi chung của đất nước và thời cuộc, nếu không sẽ bị lu mờ theo thời gian.

Theo TS. Nguyễn Quốc Tuấn, mặc dù hoàn cảnh Phật giáo Nam Bộ thời kì này có những nét như đã nêu trên, song vẫn có một số vị cao tăng có thực học, thực tu tìm mọi cách duy trì mạng mạch của Phật giáo, vẫn hô hào duy trì tòng lâm quy chế, mỗi năm từ ngày 8 đến ngày 14/4 (âm lịch) vẫn xin phép chính quyền thực dân an cư kiết hạ. Các vị còn gửi giấy mời tới tăng già trong các tỉnh miền Tây Nam Bộ cùng nhau tu học trong ba tháng hạ để học kinh, luật, luận, để truyền giới và họ mời các giảng sư có uy tín tham gia giảng dạy. Có thể kể đến các vị cao tăng nổi tiếng tại miền Nam lúc bấy giờ như: Hòa thượng Tâm Thông - chùa Trường Thọ (Gia Định), Từ Phong - chùa Giác Hải (Sài Gòn), Hoằng Nghĩa - chùa Giác Viên (Chợ Lớn), Từ Văn - chùa Hội Khánh (Bình Dương), Huệ Tịnh - chùa Linh Tuyền (Tiền Giang), “Mẹ Nội” (tên thường gọi của người dân) - chùa Phước Lâm (Sa Đéc), Thanh Kế - chùa Thiên Thai (Bà Rịa), Từ Vân - chùa Tân Long (Bến Tre), pháp sư Hoằng Đạo - chùa Hội Linh (Bạc Liêu)... Và cuối cùng phải nêu đến Hòa thượng Khánh Hòa - người lãnh đạo phong trào chấn hưng, có nhiều hoạt động Phật sự và hoằng dương xuất sắc6.

Về phía thực dân Pháp, mặc dù ban đầu đã tìm cách ngăn cản theo dõi sát sao các hoạt động Phật sự của Tăng ni, Phật tử nhưng trước những ảnh hưởng về mặt văn hóa, tinh thần và nhất là số lượng tín đồ khá đông đảo của Phật giáo, chính quyền thực dân đã ít nhiều chú ý đến tôn giáo này. Bằng chứng là sau khi bình ổn được Đông Dương, thực dân Pháp đã cho sưu tập nhiều kinh sách Phật giáo để dịch sang tiếng Pháp, cho phép thành lập Viện nghiên cứu Phật giáo Tiểu thừa tại Nam Vang (25/01/1928) với mục đích là: “Lập Phật học đường tại các chùa Cao Miên và Lào để dạy học. Lập tháp Bảo Phương để giữ kinh sách nói về Phật giáo Tiểu thừa. Lập cổ tích sở để chứa đồ cổ tích của nhà Phật. Dịch kinh sách chữ Pali sang chữ Cao Miên, chữ Lào và chữ Quốc ngữ cho nhân dân xem đặng hiểu đạo lí7; thành lập Hội Nghiên cứu vùng Viễn Đông (Société d’études orientales), Hội Tri thức nhà Phật (Les Amis du Bouddhisme)...; cho phép các học giả người Pháp tại Đông Dương như Silvain, Burnouf, Chavannes,... tiếp cận và nghiên cứu về đạo Phật. Tiêu biểu là dược sĩ Isnard đã có các công trình nghiên cứu về Phật giáo khá nổi tiếng như: Cội nguồn trí tuệ và hạnh phúc của Đức Phật (La sagesse du Bouddha et la Science du Bonheur), Lược khảo các tông phái chính của Phật giáo ở Viễn Đông (Esquisse des principales sectes du Bouddhisme en Extrême - Orient)...

Chính trong bối cảnh có nhiều khó khăn hơn thuận lợi ấy, các Tăng ni, Phật tử Nam Bộ với bầu nhiệt huyết của mình đã cùng các nhà trí thức, những người mến mộ đạo Phật đứng ra vận động chấn hưng Phật giáo. Mặc dù ban đầu, quá trình vận động chấn hưng Phật giáo không nhận được sự đồng tình của chính quyền thuộc địa, nhưng thông qua mối liên hệ với các học giả người Pháp, Hội Tri thức nhà Phật, nhất là sức ép từ việc bình ổn quần chúng nhân dân Việt Nam để dễ bề cai trị và khai thác thuộc địa, thực dân Pháp đã buộc phải kí các nghị định cho phép các tổ chức Phật giáo được thành lập. Trong bài phát biểu chào mừng Từ Bi Âm ra mắt số đầu tiên, Phó Hội trưởng Trần Nguyên Chấn đã khẳng định rằng: “Nhờ liên lạc với Hội Tri thức nhà Phật nên Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học mới lập tại Sài Gòn, được quen biết các cơ sở khảo cứu Phật học bên Âu châu8. Và đây cũng chính là cơ duyên cho sự ra đời của phong trào chấn hưng Phật giáo tại miền Nam nói riêng và cả nước nói chung.

Đóng góp của Hòa thượng Khánh Hòa

Có thể nói rằng, chấn hưng Phật giáo là tâm nguyện suốt cả cuộc đời của Hòa thượng Khánh Hòa. Trong đó, hoạt động mà ngài kì vọng sẽ mang lại hơi thở mới cho Phật giáo Việt Nam lúc này là đào tạo ra được các Tăng ni sinh vững chãi về mặt kiến thức Phật học lẫn thế học. Điều này được minh chứng một cách rõ nét qua quá trình ngài đứng ra vận động chấn hưng Phật giáo cũng như khi phong trào đi vào vận hành thì ngài đã dành tất cả tâm huyết của mình cho hoạt động này.

Năm 1923, nhân ngày giỗ tổ tại chùa Long Hoà (Trà Vinh), Hòa thượng Khánh Hòa đã vận động chư tôn thiền đức khắp miền Tiền Giang và Hậu Giang về dự lễ, đồng thời họp bàn chấn hưng Phật giáo9. Kết quả là các vị Hòa thượng có mặt trong buổi lễ như Huệ Quang, Trí Thiền, Từ Phong,... đã dự định cùng nhau thành lập Hội Lục hòa Liên hiệp để từ đó tiến tới thành lập Phật giáo Tổng hội trong toàn quốc. Tuy vậy, Hòa thượng Khánh Hòa đã “không thành lập được hội này10.

Năm 1927, Hòa thượng Khánh Hòa được mời ra thỉnh giảng tại Trường hạ Long Khánh (Quy Nhơn). Trường hạ này do Quốc sư Phước Huệ chứng minh, Hòa thượng Huệ Quang (chùa Long Hòa, Trà Vinh) làm Thiền chủ, bà Lê Thị Ngởi (Bến Tre) làm Đại thí chủ, Hòa thượng Thành Đạo làm Chánh quản chúng. Suốt ba tháng giảng dạy, Hòa thượng Khánh Hòa đã tích cực tìm kiếm bạn đồng môn cùng chí hướng chấn hưng Phật giáo. Tại đây, ý tưởng chấn hưng Phật giáo của ngài đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ của đông đảo tăng ni, Phật tử miền Trung và nhất là của Quốc sư Phước Huệ và Hòa thượng Bích Liên. Sau này, Hòa thượng Khánh Hòa, Bích Liên, Liên Tôn chính là bộ ba tiêu biểu trong các hoạt động chấn hưng Phật giáo tại miền Nam.

Cuối tháng 5/1927, sư Thiện Chiếu từ Hà Nội về mang theo một số báo Hải Triều Âm (trong đó có đăng tải các hoạt động chấn hưng Phật giáo của Thái Hư Đại sư cũng như bản điều lệ và quy tắc của Hội Phật giáo Trung Hoa) ghé qua trường hạ ở Quy Nhơn, đưa cho Hòa thượng Khánh Hòa xem và thúc giục ngài phải nhanh chóng tiến hành chấn hưng Phật giáo. Sau khi kết thúc khóa giảng, Hòa thượng Khánh Hòa về lại Sài Gòn đã cùng sư Thiện Chiếu tích cực chuẩn bị các công tác cho công cuộc chấn hưng Phật giáo.

Để có kinh phí hoạt động, Hòa thượng Khánh Hòa đã lặn lội đến các tự viện Nam Bộ tuyên truyền, vận động, sau đó, ngài đáp tàu sang Phnom Penh (Campuchia) để nghiên cứu tình hình Phật giáo và cách đào tạo tăng tài tại đây. Trong chuyến đi này, ngài đã nhận được sự tham gia góp sức của các chùa như: chùa Tiên Linh (Mỏ Cày) ủng hộ 30 đồng Đông Dương (viết tắt $), Phước Sơn (Mỏ Cày) ủng hộ 30$, chùa Vạn Cổ (Vĩnh Long) 30$, chùa Long Hòa (Tiểu Cần) 30$, chùa Phước Long (Bến Tre) 30$, chùa Long Khánh (Trà Vinh) 30$, chùa Long Phước (Bạc Liêu) 30$, chùa Viên Giác (Bến Tre) 20$, chùa Bình An (Long Xuyên) 20$, chùa Phước Thạnh (Cái Bè) 20$, chùa Long Phước (Sóc Trăng) 20$, chùa Khánh Hòa (Cao Một?) 20$, chùa Long An (Sa Đéc) 20$, chùa An Phước (Sa Đéc) 20$, chùa Liên Trì (Bến Tre) 10$, chùa Bảo Lâm (Mĩ Tho) 10$, chùa Phủ Châu (Cái Bè) 10$, chùa Kim Tiên (Cai Lẫy) 10$, chùa Long Thiền (Vĩnh Long) 10$. Đặc biệt có 17 cư sĩ ở TràVinh đã ủng hộ 1.300$. Như vậy, ngài Khánh Hòa đã huy động được 1.700$ để chuẩn bị cho công tác chấn hưng Phật giáo. Đây quả là một số tiền khá lớn so với lúc bấy giờ.

Sau khi đã có được nguồn kinh phí, năm 1928, quý Hòa thượng Khánh Hòa, Huệ Quang, Từ Nhẫn, Liên Trì, Thiện Niệm đến chùa Linh Sơn (Sài Gòn) cùng sư Thiện Chiếu và một số Phật tử trẻ tuổi khác thành lập một tổ chức có tên gọi là Hội Nam kỳ Phật giáo11. Mục đích hàng đầu mà Hội này hướng đến là lập Phật học đường để giáo dục tăng đồ và xây dựng Phật học thư xã tàng trữ kinh sách. Tháng 12/1928, Hội đã tạo dựng được Phật học thư xã và sưu tầm được 771 Bộ Đại tạng kinh (Bộ kinh này do Chư đoàn Việt cư sĩ ở Trà Vinh cúng tặng), cùng một số sách, báo khác,… về lưu trữ tại tại đây. Theo Hòa thượng Khánh Hòa, Hội Nam kỳ Phật giáo chính là tiền thân của Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học, vì hai hội cũng đều được thành lập tại chùa Linh Sơn (Sài Gòn) và thành phần tham gia sáng lập hai hội này đều là một12. Tuy nhiên, do không xin được giấy phép của chính quyền sở tại nên Hội Nam kỳ Phật giáo đã không thể đi vào hoạt động.

Năm 1929, chư vị nói trên đã cùng Thượng tọa Trí Thiền tiến hành cải tổ Hội Nam kỳ Phật giáo thành Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học. Tên gọi, mục đích, cách thức tổ chức cũng như quyền hạn và nhiệm vụ của các thành viên, các ban được nêu rõ trong bản Điều lệ và Quy tắc của Hội và đã được các thành viên sáng lập thông qua vào ngày 28/12/1929. Tuy nhiên, khi trình lên chính quyền thuộc địa, yêu cầu này vẫn tiếp tục không được chấp thuận. Thời gian này, Hòa thượng Khánh Hòa xuất bản tập san Phật học bằng chữ Quốc ngữ lấy tên là Pháp Âm, số đầu tiên ra mắt vào ngày 13/8/192913. Đây là tờ tạp chí Phật giáo bằng chữ quốc ngữ đầu tiên ra đời ở nước ta. Một điểm chúng ta cần chú ý là tờ báo này được biên tập và xuất bản tại Sài Gòn nhưng trụ sở lại đặt tạm tại chùa Sắc tứ Linh Thứ (Mĩ Tho). Đây cũng là trụ sở của báo Dân Cày, tiếng nói của những người làm cách mạng ở địa phương này. Biết được thông tin, thực dân Pháp cho quân lục soát chùa Linh Thứ, vị Thủ tọa bị truy nã, còn Hòa thượng Khánh Hòa phải ôm kinh sách đến Sở Mật thám giải trình. Sau biến cố này, tờ Pháp Âm không ra được số kế tiếp và nó trở thành kỉ yếu của cuộc vận động chấn hưng Phật giáo mà ở đó chúng ta thấy các bài viết rất có giá trị của Hòa thượng Khánh Hòa về những trăn trở của ngài khi đạo pháp suy vi, tăng đồ thất học.

Giải thích cho sự ra đời của Phật học đường và Phật học thư xã (2 mục đích chính của Hội Nam kỳ Phật giáo và sau đó là Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học) cũng như tờ Pháp Âm, Hòa thượng Khánh Hòa viết: “Đạo Phật ở Nam kỳ ta hiện thời, trong thì tăng đồ thất học, làm sai pháp luật, ngoài thì tín đồ không hiểu đạo, mê tín dị đoan, bây giờ mình hiệp nhau lập thư viện thỉnh Tam Tạng kinh, một mặt thì lo nghiên cứu và phiên dịch để xuất bản, hoặc tòng thơ hoặc tạp chí để lưu thông trong thiên hạ khiến mọi người thông hiểu được cái giáo lí của đạo, mới mong trừ tuyệt những điều mê tín kia. Một mặt thì ra sức giáo hóa cho tăng đồ có tư cách, phòng gánh vác Phật sự sau này, có học mới biết đường mà tu, không thì họ cứ mượn chùa ra làm nhà riêng của mình, kẻ trước vậy, kẻ sau vậy, chắc đạo Phật phải tiêu ma, nên tính phải lập trường học để đào tạo nhân tài, ấy là cái trọng trách của người xuất gia vậy14. Ngài nhấn mạnh thêm rằng: “Nếu đạo Phật mà muốn có đủ nhân tài để trước kinh, hoặc dịch luận, mà ngăn đỡ cái chánh đạo ở đời mạt pháp này, tưởng ngoài trường học ra thì không tìm đâu được. Vả lại các ông sư mà không hiểu lịch sử Phật, không biết pháp luật Phật, cũng bởi cái hại không có trường học mà ra, nên tôi tưởng lo lập Phật học đường là cái cấp vụ của đạo Phật vậy15.

Vốn là người mang nặng tâm huyết chấn hưng Đạo pháp, nhưng đứng trước thực trạng nền giáo dục Phật giáo đang ngày càng tụt dốc như vậy, Hòa thượng Khánh Hòa đã phải thốt lên rằng: “Đến nỗi cả toàn quốc không có một trường học Phật16. Phải làm cách nào, làm như thế nào để khắc phục được vấn nạn này? Trong khi ở Nam Bộ lúc này “chỉ còn đôi ông bạn học rộng hiểu xa, nhưng lải rải ở nơi lục châu (Lục tỉnh Nam kỳ – tác giả giải thích) chưa biết có ai đồng chí nhiệt thành mà đề xướng thật hành cái phương pháp ấy17. Trong một bài viết đăng tải trên Nguyệt san Pháp âm, ngài lại một lần nữa kêu gọi các tăng ni, Phật tử có lòng nhiệt thành vì đạo cùng chung tay xây dựng thư viện, lập trường học và dịch kinh sách Phật giáo sang chữ Quốc ngữ cho tiện tu học. Ngài viết: “Muốn truyền bá tư tưởng thì các nhà học Phật nên hiệp tác với nhau, chung cùng tư phủ cắt nhà thư xã, thỉnh ba tạng kinh đồng tâm nghiên cứu, rồi diễn dịch ra chữ Quốc ngữ, phổ thông trong thiên hạ khiến cho mỗi người xem đọc đều hiểu được pháp luật nhà đạo, ai làm trái thì chừa, ai làm phải thì theo... Còn một bên thì lập trường Phật học, cho học sinh tân nghiệp luôn luôn. Học cho thông ngũ giáo tam thừa, rồi ra trách nhiệm trụ trì, cho kiêm toàn phước huệ, hầu xiển dương diệu pháp, thì mới trông mong tăng giới được tinh tấn18. Quả thật, đây cũng chính là những vấn đề vô cùng thiết yếu và cấp thiết đặt ra cho các tăng ni, Phật tử lúc này.

Có thể thấy rằng, ngoài những nhân tố khách quan bên ngoài, sự khủng hoảng và suy yếu của Phật giáo Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX chủ yếu bắt nguồn từ các nguyên nhân như tăng đồ thất học, tăng già suy vi, tăng đoàn rời rạc... Do vậy, lập hội Phật giáo là để kêu gọi tinh thần đoàn kết của Phật môn, vì đoàn kết là sức mạnh, là phương tiện để Phật giáo Việt Nam đi đến thống nhất; Việt hóa kinh sách Phật học là để cho mọi người có thể hiểu sâu hơn giáo lí nhà Phật, có hiểu giáo lí nhà Phật thì mới có thể tin Phật, có tin Phật thì mới có thể ủng hộ công cuộc chấn hưng Phật giáo. Bởi theo Hòa thượng Khánh Hòa miêu tả thì do “không đọc được kinh Phật, nên tín đồ không hiểu giáo lí Phật là gì. Bắt đầu từ đó họ xa dần đạo Phật. Đạo Phật bắt đầu suy đồi”; lập Phật học đường là để đào tạo tăng tài. Đào tạo tăng tài tức là chú trọng đến vấn đề con người. Con người ở đây chính là hàng ngũ Tăng bảo, đối tượng giữ vai trò hàng đầu, trực tiếp đến sự tồn vong của Đạo pháp. Theo Hòa thượng Thích Thiện Minh: “Tăng bảo là hiện thân cụ thể cho tinh thần vô thượng của đạo Phật. Tăng bảo còn, Phật giáo còn; Tăng bảo bị suy đốn thì Phật giáo bại vong! Đó là môt sự hiển nhiên mà lịch sử đã chứng minh một cách rõ ràng. Vì vậy, nơi nào có những hàng tăng bảo có thực tài, thực đức thì nơi ấy Phật giáo được tồn tại một cách xứng đáng với danh nghĩa của nó19. Và đúng như nhận định của Đức Tăng thống Thích Tịnh Khiết: “Đào tạo tăng tài là trước hết các Phật sự20. Từ đó cho thấy rằng từ rất sớm, Hòa thượng Khánh Hòa đã nhận thấy được tầm quan trọng của công tác giáo dục và đào tạo tăng tài đối với sự tồn vong của Đạo pháp. Mặc dù ở thời điểm này, việc kêu gọi đào tạo tăng tài của ngài chưa thực sự nhận được sự quan tâm tán trợ của nhiều tăng ni, Phật tử nhưng nó đã góp phần mở ra một hướng đi mới cho nền giáo dục Phật giáo Việt Nam, từng bước thoát ra khỏi nền giáo dục truyền thống, theo kiểu nối ngôi ở từng tổ đình, từng sơn môn, pháp phái như trước đây.

Sau nhiều lần để trình xin giấy phép hoạt động nhưng không thành công, ngày 26/8/1931, Thống đốc Nam kỳ là Khrautheimer đã phê chuẩn Nghị định số 2062 chính thức công nhận tính pháp lí của Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học (Association pour l'etude et la conservation du Bouddhisme en Cochinchine), đồng thời thông qua 19 điều lệ và 51 điều quy tắc21. Mục đích lớn nhất của việc thành lập Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học mà ngài hướng đến không khác ngoài việc là: “Lo sự sùng thượng Phật giáo tại chùa Linh Sơn. Lo sự tu bổ và hành động của ngôi tháp Bảo Phương, ngôi Duyệt kinh thất và mua kinh sách bằng chữ Lang sa và chữ Hán trữ trong tháp Bảo Phương. Lo sự dịch ra chữ Quốc âm những kinh sách chữ Hán,... đặng cho người bổn quốc đặng tường đạo lí. Lo lập tại chùa ấy một ngôi Thích học đường để dạy tăng đồ học đạo và lo tu bổ cách hành động ấy22.

Thời gian đầu, các thành viên của Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học cũng đã chủ động đề xuất các chương trình đào tạo tăng tài. Tiêu biểu như Hòa thượng Đạo Tế với bài viết Con đường tương lai của tăng già đã chủ trương là nên mô phỏng theo chương trình của Thái Hư Đại sư về Chánh học loại, Tham học loại và Cửu học loại trong giáo dục tăng tài. Đối với phái tại gia thì chương trình đào tạo nên áp dụng theo mô hình của hội Phật giáo Nhật Bản bắt đầu từ việc thành lập Phật giáo đoàn tiến tới thành Chánh tín hội23. Bên cạnh đó, Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học còn chủ trương là lập ra các kinh viện, lấy tiền học phí dạy tăng đồ để xuất bản sách, báo, làm sao hạ giá xuống cho rẻ, lưu hành cho nhiều, ai cũng có thể mua và xem được, ai cũng có thể tu tập được, ai cũng hiểu được giáo lí. Như vậy sẽ không lo không có bậc chân tu, không có người đứng ra hoằng dương Phật pháp.

Tuy nhiên, không lâu sau đó ý nguyện lập Phật học đường Linh Sơn để đào tạo tăng tài của ngài đã không được hiện thực hóa. Nguyên nhân xuất phát từ những bất đồng chính kiến trong nội bộ của Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học lúc bấy giờ. Gần như trong suốt khoảng thời gian tồn tại của mình, hoạt động chủ yếu mà Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học hướng đến không phải là đào tạo tăng tài, mà chủ trương là dùng báo chí thúc đẩy sự nghiệp hoằng dương Phật pháp, phiên dịch kinh sách Phật học để mở mang kiến thức cho tăng đồ và xem đây là một trong những biện pháp hữu hiệu nhằm khắc phục tình trạng suy yếu của Phật giáo đương thời. Trong một bài viết đăng tải trên Tạp chí Từ bi âm, tác giả Vân Sơn cũng đã cho rằng: “Chớ lôi thôi một đôi ngôi Thích học đường, lưu học năm ba mươi tăng đồ, thì có đủ gì đâu, lại còn sợ sẽ hóa ra một đám người vô chức nghiệp nữa... Chi bằng lấy chữ Quốc văn ra mà làm món phổ thông đạo Phật là một điều tiện lợi hơn hết24. Không những thế, các hoạt động mà Hội triển khai thực hiện đều hướng đến việc khuếch trương danh dự cho Hội và thường mang nặng tính thời sự hơn là Phật sự. Như trong quá trình hoạt động, Hội đã tham gia giúp nhiều hội viên, nhiều chùa, nhiều Phật tử khỏi mất đất, khỏi sự lấn át của phú hào địa chủ sở tại.

Sự bất đồng quan điểm trong việc triển khai các hoạt động chấn hưng Phật giáo đã làm cho Hòa thượng Khánh Hòa buộc phải rời khỏi Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học, rời khỏi tạp chí Từ bi âm khi nó vừa tròn số 45.

Để tiếp tục thực hiện chí nguyện đào tạo tăng tài, chấn hưng đạo Pháp, năm1933, Hòa thượng Khánh Hòa đã cùng với các chư vị Huệ Quang, Khánh An, Pháp Hải,... đứng ra thành lập Liên đoàn Học xã tại chùa Viên Giác (Bến Tre). Mục đích chính của Liên đoàn Học xã là đào tạo tăng tài theo hình thức cứ mỗi chùa sẽ hỗ trợ chi phí trong vòng 3 tháng liên tiếp cho các buổi thuyết pháp và dạy học. Chương trình được bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 6 tại chùa Long Hòa (Vĩnh Long), tiếp theo là chùa Thiên Phước (Trà Vinh) và cuối cùng là chùa Viên Giác (Bến Tre) thì tan rã. Nhiều nhà nghiên cứu trước đây cho rằng do thiếu nguồn kinh phí để hoạt động nên Liên đoàn Học xã đã buộc phải giải thể. Tuy nhiên, theo nguồn tư liệu mà chúng tôi có được thì sự tan rã của Liên đoàn Học xã không phải xuất phát từ nguyên nhân này mà chính là sự ngăn trở của commis Trần Nguyên Chấn - Phó nhì Hội trưởng Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học. Do không tán thành cách thức hoạt động của Liên đoàn nên commis Chấn đã có đơn phản ánh gửi chính quyền đương thời. Mặc dù thực dân Pháp vẫn cho phép Liên đoàn Học xã tiếp tục hoạt động nhưng các chùa đã tham gia kí tên tán thành trước đây đều từ chối vì cho rằng: “Tốn của lo Phật sự mà bị ông Chấn đầu cáo này nọ, thành thử nửa chừng phải giải tán25.

Sau sự tan rã của Liên đoàn Học xã, Hòa thượng Khánh Hòa tiếp tục đứng ra vận động các tăng ni, Phật tử cùng chung chí hướng chấn hưng thành lập một tổ chức Phật giáo mới ở Trà Vinh. Kết quả là ngày 13/8/1934, Hội Lưỡng Xuyên Phật học (Association Bouddhique Luong Xuyen) được Thống đốc Nam kỳ là Pagès phê chuẩn Nghị định số 2286, cho phép thành lập tại chùa Long Phước. Cơ cấu tổ chức của Hội được chia làm 3 ban. Ban Quản lí gồm Hội trưởng là Lê Văn Xuyến (pháp danh An Lạc), Hội phó là Phạm Văn Liêu, Thủ quỹ là Thái Phước, Thư kí là Phạm Văn Luông, Pháp sư học đường là Võ Khánh Anh, Đốc học sư là Lê Khánh Hòa, mộ thay nhiều Giáo thọ (tiêu biểu Nguyễn Văn An), 2 Kiểm soát là Nguyễn Văn Khỏe, Sơn Sau. Ban Chỉ huy gồm Chánh Tổng lí là Nguyễn Huệ Quang, Phó Tổng lí Lê Diệu Pháp và Cố vấn hành chính của Hội là Lê Tâm Quang. Ban Danh dự gồm Hội trưởng là ông Robert Dufour - Chủ tịch hạt Trà Vinh; Hội phó Danh dự và các hạng hội viên như: sáng lập, trường trợ, tán trợ. Hòa thượng Từ Phong - chùa Giác Hải (Chợ Lớn) được mời làm Chứng minh Đạo sư. Đến ngày 5/7/1935, Toàn quyền Đông Dương là René Robin kí Nghị định số N604-S cho phép xuất bản tạp chí Duy tâm Phật học, mỗi tháng ra 4 kì, số đầu tiên được ấn hành vào ngày 1/10/193526. Chủ nhiệm tòa soạn là Hòa thượng Huệ Quang, Chủ bút là Hòa thượng Khánh Hòa và Quản lí là Nguyễn Văn Khỏe.

Với Hội Lưỡng Xuyên Phật học, hoạt động đào tăng tài luôn là nhiệm vụ hàng đầu mà Hội hướng đến. Bằng chứng là ngay trong mục đích nói về sự ra đời của Hội, các thành viên sáng lập đã khẳng định là: “Một mặt lo đào tạo nhân tài để trùng hưng Phật pháp, về phương diện hoằng pháp lợi sanh một mặt đồng tu tập cho tinh tấn đoàn thể tăng già và nghiên cứu nghĩa lí màu nhiệm trong kinh tạng, phô diễn ra chữ Quốc âm để làm món tâm dược mà cống hiến cho nhân sinh27. Hay trong bản Điều lệ và Quy tắc thành lập, Hội cũng đã dành rất nhiều điều khoản để nói đến các vấn đề về giáo dục và đào tạo tăng tài. Tiêu biểu như: Điều 1 là chỉ thu nhận những học trò từ 15 đến 25 tuổi; những người xuất gia hay tại gia muốn vào trường học phải biết chữ Quốc ngữ, chữ Hán và phải thông hiểu một chút kinh, luật, luận. Phải làm đơn trình cho Ban Quản lí Giáo dục và kể đủ lai lịch của mình, tên cha mẹ, nghề nghiệp của cha mẹ và chỗ ở hiện tại. Các học tăng sẽ chịu khảo thí theo chương trình của Hội. Học tăng nào tư cách tầm thường, không thể học nổi thì sẽ bị Hội đồng bất ra. Các học tăng được thu nhận mà không giữ đúng thanh quy cũng sẽ bị tẩn xuất. Hội sẽ cung cấp cho các tăng ni sinh tài liệu học tập, chịu học phí mỗi khóa là 5 năm, đến khi thi đậu ra trường phải ở lại giúp Hội 5 năm, sau đó Hội sẽ phân bổ đi hoằng pháp hoặc làm giáo viên các nơi khác… Điều 3, sẽ lập một trường Phật học để đào tạo tăng tài và cốt để tuyên truyền chánh giáo của đạo Phật. Điều 4, Hội sẽ chọn các vị giảng sư có uy tín để tham gia giảng giải phần kinh luật...28.

Ngày 12/9/1935 (ngày 15/8 âm lịch), Hội Lưỡng Xuyên Phật học chính thức khai giảng Phật học đường tại chùa Long Phước, đón nhận Tăng ni sinh theo học. Theo Hòa thượng Khánh Hòa, mục đích mà Phật học đường Lưỡng Xuyên hướng đến là: “Tùy theo trình độ tiến hóa của nhân loại mà cải cách cho phù hợp với thời kì Phật pháp xướng minh, cốt để giáo hóa nhân tâm, phò trì mạt vận cho đặng “đạo tùy cơ cảm, giáo dĩ thi hưng, đào tạo cho một ngày kia có người thành tài, đạt đức”, nhơn thiệt nhĩ mục, Phật pháp đống lương, để làm sư bảo trong Phật giáo29. Điều kiện để theo học của tăng ni sinh là “phải thọ giới, kiết hạ ba tháng để học tập oai nghi, tế hạnh, giới luật cho biết tánh tường; chẳng đặng ăn phi thời và chẳng có các chứng bệnh như lao, ghẻ, lát...”30.

Nhằm nâng cao chất lượng đầu vào, Ban Trị sự Hội Lưỡng Xuyên Phật học đã tiến hành tổ chức một cuộc khảo thí đối với các tăng ni sinh. Ban Giám khảo cuộc thi cũng đã được thành lập gồm: Trưởng ban là Đốc học sư Lê Khánh Hòa, Phó ban là Chánh Tổng lí Huệ Quang, Cố vấn viên là Hội trưởng An Lạc, Ủy viên là Hòa thượng Bảo Lâm và Hòa thượng Viên Giác, Giám trưởng là Pháp sư Khánh Anh. Chương trình thi được chia làm 2 buổi: Buổi sáng các thí sinh dự thi sẽ đọc một bài Hán văn và viết một bài ám tả và một đoạn kinh văn bằng chữ Hán; buổi chiều, thí sinh sẽ viết một bài ám tả bằng chữ Quốc ngữ, làm một bài luận với chủ đề: Bổn phận của một người học sinh khi thi đỗ rồi thì phải làm như thế nào cho tròn nghĩa vụ đối với Hội Lưỡng Xuyên Phật học và đối với Phật pháp31.

Trong số 20 học tăng đầu tiên tham gia dự thi, có 8 người đủ điều kiện và kết quả là cả 8 người đều thi đỗ. Tuy nhiên, do số lượng quá ít nên Ban Trị sự Hội Lưỡng Xuyên Phật học đã nới lỏng các điều kiện theo học cho các tăng ni sinh. Năm học 1935 - 1936, Phật học đường Lưỡng Xuyên đã tổ chức đào tạo được 2 lớp tăng - ni, độ tuổi từ 9 đến 29, với tổng cộng khoảng 30 người. Lớp tăng sinh đầu tiên với các tên tuổi như: Hành Trụ, Huyền Quang, Thiện Hòa, Thiện Hoa, Hiển Không... Lớp ni đầu tiên gồm: Lê Trâm Anh (Huệ Chơn), Lê Ngọc Trinh (Kim Viên), Vương Thị Kiến (Như Huệ), Lê Thị Thanh (Diệu Tâm), Thái Thị Anh (Diệu Kim), Thái Thị Nguyệt (Diệu Minh), Võ Thị Lựu (Diệu Trước), Lưu Thị Nhạn (Diệu Tánh), Trương Thị Lí (Huệ Hoa)... Lớp Ni do Thích MinhTịnh đảm nhiệm (thời gian sau lớp Ni dời về chùaVĩnh Bửu ở BếnTre).

Theo Trần Văn Giác, chương trình đào tạo tăng tài của Hội Lưỡng xuyên Phật học giai đoạn này được xây dựng dựa theo chương trình giáo dục của Hội An Nam Phật học ở Huế32 (trước đó, Hội Lưỡng Xuyên Phật học đã cử hai hội viên là Nguyễn Văn Thọ và Nguyễn Văn Trọng ra Huế học tập cách thức tổ chức và hoạt động của Hội An Nam Phật học). Đối với cấp tiểu học, các học tăng sẽ trải qua 5 năm với các học phần tương ứng như: năm thứ nhất học Quốc ngữ và hai buổi công phu; năm thứ hai học Sự tích Phật Thích Ca, bốn phép toán và Phật học giáo khoa thư; năm thứ ba học Luật Sa di, Vô lượng thọ kinh, Địa Tạng kinh thủy sám pháp; năm thứ tư học Sa di luật giải, Thập lục quán kinh; năm thứ năm học Di Đà sớ sao, Bảo đàn kinh. Cấp đại học cũng gồm 5 năm: năm thứ nhất học Kim Cang trực sớ, Tâm kinh chú giải, Duy thức phương tiện đàm, Bát thức quy củ tụng trang sớ; năm thứ hai học Lăng Nghiêm kinh, Viên Giác kinh, Nhân minh luận; năm thứ ba học Lăng già kinh, Khởi kín luận, Đại thừa chỉ quán luận; năm thứ tư học Thành duy thức luận, Pháp Hoa kinh, Phạm Võng kinh; năm thứ năm học Đại bát Niết Bàn kinh, Tứ phần luật. Đồng thời, nhờ sự giúp đỡ của cư sĩ Ngô Trung Tín và Huỳnh Thái Cửu, Phật học đường Lưỡng Xuyên cũng đã mua được một bộ Đại Tạng Kinh về trữ tại trường để làm tài liệu học tập.

Bước sang năm 1936, Hội Lưỡng Xuyên Phật học chính thức cho ra mắt Ban Quản lí Phật học đường gồm: Hòa thượng Từ Phong làm Đại đạo sư, Hòa thượng Lê Khánh Hòa và Võ Khánh Anh làm Đại pháp sư, Hòa thượng Chánh Thiền và Nguyễn Bửu Sơn làm Giảng sư, Cố vấn là Thích Pháp Ân và Lê Tâm Quang, Kiểm soát là Lê Diệu Pháp và Thích Liễu Đàn33. Thỉnh thoảng, Hội có mời các vị Mật Thể, Như Ý, Trí Thuyên, Nhật Liên từ Huế vào dạy. Cũng trong năm này, dưới sự hướng dẫn của Hòa thượng Khánh Hòa, Phật học đường Lưỡng Xuyên đã chọn ra 2 tăng sinh có thành tích tu học tốt nhất là Thích Thiện Hòa và Thích Hiển Không ra Huế theo học tại Phật học viện Tây Thiên. Năm 1937, Phật học đường Lưỡng Xuyên tiếp tục gửi các học tăng ưu tú của trường ra Huế theo học như: Thích Thiện Hoa; Thích Huyền Quang; Thích Bửu Ngọc; Thích Chí Thiện; Thích Chánh Quang; Thích Hiển Thụy; Thích Hành Trụ; Thích Quảng Liên, Nguyễn Tấn Tài...

Cùng với việc tổ chức trường lớp cho tăng chúng theo học, Hòa thượng Khánh Hòa đã trực tiếp đứng ra giảng dạy cho các tăng ni sinh. Trong quan điểm nghiên cứu và tu học của mình, ngài luôn căn dặn các tăng ni sinh rằng: “Cần phải dựa trên chủ nghĩa duy vật biện chứng để giải thích cho tường tận gốc rễ của mọi vấn đề. Riêng đối với những tín đồ mới theo học thì cần phải tham cầu những vị chân tu để hỏi cho ra những ẩn vi huyền bí của thế giới quan, nhân sinh quan... Đã rõ chỗ phát nguyên rồi còn phải hỏi chỗ tu chứng cho tường tận, gạn hỏi, tìm tòi cho tận nguồn gốc, vậy mới hết nghi, hết nghi mới ngộ, ngộ rồi tùy theo căn lực của mình mà tu tập34. Đồng thời, đã là một người học Phật thì phải noi theo sở hành nhà Phật, làm theo công vụ nhà Phật, chuyên tâm tu hành, nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm, làm hoài, làm hoài thì mới thấy thân công kết quả... Được như vậy, thì người người đều hâm mộ, ai ai cũng hiệp hòa, nào có lo chi nhân tâm không thu hướng, Phật giáo chẳng trùng hưng35.

Từ năm 1939, do sức khỏe có phần suy giảm, Hòa thượng Khánh Hòa đã tạm thời lui về chùa Vĩnh Bửu (Mỏ Cày, BếnTre), để tịnh dưỡng chuyên tu. Tại đây, ngài đã cho mở Ni trường Phật học để chuyên chú cho Ni giới. Cùng với việc dời lớp ni sinh ở Phật học đường Lưỡng Xuyên về đây, Ni trường Vĩnh Bửu đã quy tụ thêm các sư ni như: Như Huệ, Từ Nguyên, Hải Huệ, Phổ Ðức, Giác Nhẫn, Tịnh Ðắc, Diệu Minh, Diệu Bổn, Diệu Phúc, Diệu Hạnh... Đến năm 1940, vì tuổi cao, sức yếu nên Hòa thượng Khánh Hòa đã giao lại Ni Trường này cho sư bà Như Huệ, còn ngài trở về chùa Tuyên Linh để an dưỡng. Theo như đánh giá của tác giả Nguyễn Lang trong công trình Việt Nam Phật giáo sử luận thì đây là ngôi trường đầu tiên dành riêng cho Ni giới tại Nam Bộ.

Sau nhiều năm tháng miệt mài với công việc chấn hưng Phật giáo, đào tạo tăng tài, năm 1947, ngài an nhiên viên tịch tại chùa Tuyên Linh, hưởng thọ 70 tuổi đời và 40 tuổi đạo. Một điều đáng cảm động và trân trọng hơn là trước lúc trở về với cõi Phật, ngài vẫn không quên căn dặn các đệ tử của mình là phải chuyên tâm tu học, phải chăm lo đào tạo tăng tài. Trong bản di chúc, ngài viết: “Phật giáo đang hồi suy vi, nước nhà vào cảnh loạn li, mà tôi không làm được việc gì, nên sau khi tịch rồi, chỉ tẩn liệm tôi với bộ y hậu vải thường, không nên dùng gấm lụa, đừng làm long vị sơn son thếp vàng, vì cần phải tiết kiệm để bố thí cho người nghèo. Còn ngôi chùa tôi khai sáng thì phải giao cho thầy Tì kheo đủ tài đức, giới hạnh tinh nghiêm, trụ trì kế nghiệp. Bao nhiêu tài sản của chùa, phải đem ra nuôi chúng tăng tu học, không được dành làm của riêng. Đệ tử nào không y theo lời di chúc, thì không phải là môn đồ của Phật giáo36.

Như vậy, trước sự khủng hoảng và suy yếu của Phật giáo Việt Nam đầu thế kỷ XX, các Tăng ni, Phật tử với những phương cách của mình đã tích cực chung vai, góp sức để vận động chấn hưng, cải cách. Trong đó, Hòa thượng Khánh Hòa chính là một trong những người đầu tiên khai sáng, hiện thực hóa phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam cũng như là linh hồn chính trong các hoạt động chấn hưng Phật giáo tại Nam Bộ thời kì này. Đã hơn 80 năm trôi qua, nhìn lại những thành tựu mà Hòa thượng Khánh Hòa đã tạo dựng được cho phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam nói chung và hoạt động đào tạo tăng tài nói riêng, chúng ta càng thấm thía về những giá trị và những đóng góp to lớn của ngài. Và cuối cùng, chúng tôi xin được viện dẫn lời phát biểu của Hòa thượng Thích Quảng Minh - Hội trưởng Hội Phật học Nam Việt (1952 - 1955) để làm sáng tỏ hơn nữa vai trò, vị trí của Hòa thượng Lê Khánh Hòa trong công cuộc đào tạo tăng tài cũng như chấn hưng Phật giáo tại miền Nam nói riêng và cả nước nói chung: “Hòa thượng (Khánh Hòa) là một điểm son rực rỡ trong quyển Lịch sử chấn hưng Phật học Nam Việt. Di tượng của sư cụ là một sức mạnh giúp Hội chúng ta lướt qua những trở ngại gay go để hoàn toàn tôn chỉ mục đích của Hội... Hội chúng tôi thờ sư cụ Hòa thượng Tuyên Linh vì sư cụ là ngôi sao sáng của Phật học, là một bức gương mẫu chói rọi cho những người hộ trì chánh pháp, là người tiền phong đứng ra chấn hưng Phật giáo Việt Nam trong khi mọi người rất thờ ơ lãnh đạm với Phật giáo... Ngày nay, Hội chúng ta được thành lập và bành trướng đến đâu là có đa số người hưởng ứng, tham gia và càng ngày càng đông đảo ấy chính là nhờ những hạt giống của sư cụ đã gieo từ trước mà chúng ta chỉ là người gặt lấy kết quả mà thôi”37. 

 


 

* Viện Nghiên cứu Kinh tế - Xã hội, Trường Đại học Duy Tân, Đà Nẵng.

1. Do khuôn khổ của bài viết nên chúng tôi không đi sâu vào việc phân tích các nhân tố tác động đến sự hình thành phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam nói chung và miền Nam nói riêng. Chúng tôi chỉ xin được lược kể một số nét khái quát về hiện tình Phật giáo Nam Bộ lúc này.

2. Khánh Vân (1937),“Phật giáo ở nước ta vì đâu phải chịu cái hiện trạng suy đồi?”, Duy tâm Phật học, số 18, tr. 304.

3. Thành Đạo (1932), “Cách hành động của Phật giáo nước ta tại sao không hiệp nhất”, Từ bi âm, số 6, tr. 14.

4. Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học (1932), “Điều lệ và Quy tắc”, Từ bi âm, số 1, tr. 44.

5. Thiện Quả (1936), “Luận về vấn đề chấn hung Phật học ở nước ta”, Duy tâm Phật học, số 5, tr. 285.

6. Nguyễn Quốc Tuấn (2012), Đặc điểm và vai trò của Phật giáo Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr. 64-69.

7. Trần Nguyên Chấn (1932),“Các nước đều khảo cứu và hoan nghênh Phật giáo”, Từ bi âm, số1, tr. 21.

8. Trần Nguyên Chấn (1932),“Các nước đều khảo cứu và hoan nghênh Phật giáo”, Từ bi âm, số 1, tr.20.

9. Xem thêm Nguyễn Đại Đồng (2013), “Những người khởi xướng Phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam”, Phật giáo Việt Nam thế kỷ XX - Nhân vật và sự kiện, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 13-19.

10. Nguyễn Lang (1994), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 3, Nxb Văn học, Hà Nội, tr. 21.

11. Khánh Hòa (1937), “Người mượn chữ lục hòa cách đây mươi năm về trước”, Duy Tâm Phật học, số 16, tr. 230.

12. Khánh Hòa (1937), “Cải chánh”, Duy Tâm Phật học, số 18, tr. 342.

13. Xem thêm Nguyễn Đại Đồng (2008), Lược khảo Báo chí Phật giáo Việt Nam (1929 - 2008), Nxb Tôn giáo, Hà Nội, tr. 13-19.

14. Khánh Hòa (1929), “Hành trình nhật kí đi cổ động cuộc sáng lập Tòng lâm Phật giáo hội”, Pháp Âm, số 1, tr.43.

15. KhánhHòa(1929), “Hành trình nhật kí đi cổ động...”, Tlđd, tr.45.

16. Thích Thiện Hoa (1970), 50 năm chấn hưng Phật giáo Việt Nam, tập 1, Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất và Viện Hóa đạo xuất bản, Sài Gòn, tr. 26.

17. Khánh Hòa (1929), “Tự Trần”, Pháp Âm, số 1, tr.18.

18. Khánh Hòa (1929), “Tự trần”, Pháp Âm, số 1, tr.17-18.

19. Thích Thiện Minh (1956), Lời giới thiệu thành tích Phật học đường Tổng hội Việt Nam Phật học tại Nha Trang, Phật học đường Tổng hội phát hành, tr. 3.

20. Thích Tịnh Khiết (1956), Thành tích Phật học đường Tổng hội Việt Nam Phật học tại Nha Trang, Phật học đường Tổng hội phát hành, tr. 5.

21. Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học (1932), “Điều Lệ và Quy tắc”, Từ bi âm số1, tr. 42.

22. Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học (1932), “Điều Lệ và Quy tắc”, Tlđd, tr. 36.

23. Đạo Tế (1936), “Con đường tương lai của Tăng già”, Từ bi âm, số117, tr. 37-38.

24. Vân Sơn (1936), “Phổ thông Phật giáo phải làm thế nào”, Từ bi âm, số 114, tr. 39.

25. Hội Lưỡng Xuyên Phật học (1938), “Phật giáo Tổng hội”, Duy tâm Phật học, số 32, tr. 340.

26. Hội Lưỡng Xuyên Phật học (1935), “Đôi lời thanh minh”, Duy tâm Phật học, số1, trang phụ bìa.

27. Hội Lưỡng Xuyên Phật học (1935), “Đôi lời biểu lộ”, Duy tâm Phật học, số1, tr.14.

28. Hội Lưỡng Xuyên Phật học (1935), “Điều lệ và Quy tắc”, Duy tâm Phật học, số 2, tr. 96-108.

29. “Kết quả cuộc thi chọn sĩ tử và lễ khai trương Thích học đường của Hội Lưỡng Xuyên Phật học” (1935), Duy tâm Phật học, số 2, tr. 86.

30. Hội Lưỡng Xuyên Phật học (1937), “Kính cáo”, Duy tâm Phật học, số 19, tr. 413.

31. “Kết quả cuộc thi chọn sĩ tử và lễ khai trương ...”, Tlđd, tr.85.

32. Xem thêm Trần Văn Giác (1938), “Bài diễn văn đọc sau bữa tiệc lễ bãi trường”, Duy tâm Phật học, số 28, tr.192.

33. “Lễ Chu niên Đại hội tại Hội Lưỡng Xuyên Phật học”, (1936), Duy tâm Phật học, số 6, tr. 316.

34. Khánh Hòa (1936), “Bài giảng tại Hội quán Lưỡng Xuyên Phật học hôm ngày 9-10/1936”, Duy tâm Phật học, số 7, tr. 376.

35. Khánh Hòa (1936), “Biện minh cái chân tướng Minh đạo sa môn Khánh Hòa không thiếu không đủ”, Từ Bi Âm, số 116, tr. 44.

36. Thích Quảng Minh (1952), “Tiểu sử sư cụ Khánh Hòa”, Từ Quang Phật học, số 14, tr. 42.

37. Thích Quảng Minh (1952),“Tiểu sử sư cụ Lê Khánh Hòa”, Từ Quang Phật học, số14, tr. 42-43.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Những áng mây trắng - Thơ: Hoang Phong - Diễn ngâm: Hồng Vân
    • Mẹ ơi - Thơ: Thích Phước Hạnh - Nhạc: Hoàng Lan
    • Khúc ca Tịnh Độ - Lời: Thích Phước Hạnh - Nhạc: An Sơn
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 17
    • Số lượt truy cập : 6130399