Thông tin

HÒA THƯỢNG THÍCH BÍCH NGUYÊN (1898–1987)

 

 

Hòa thượng Thích Bích Nguyên, pháp danh là Chơn Thanh, pháp tự là Chánh Mậu, nối pháp Thiền phái Lâm Tế đời thứ 40. Ngài họ Nguyễn, húy là Tùng, sinh năm 1898, tại làng Duy Hòa, xã Triệu Hòa, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

Thời tráng niên, ngài đi lập nghiệp ở Lào, nhân đọc báo Từ Bi Âm mà ngộ đạo, thấy rõ cuộc đời vô thường, ngài bèn nuôi chí xuất gia.

Đến năm 29 tuổi (1927), ngài mới có đủ nhân duyên, trở về Việt Nam đầu sư thọ giáo với Hòa thượng Phước Huệ, trú trì chùa Hải Đức-Huế, được Hòa thượng đặt pháp danh là Chơn Thanh. Tinh cần học đạo công phu, bảy năm sau (1934), ngài được bổn sư cho đi thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Long Sơn Bát Nhã, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên.

Hai năm sau (1936), ngài được bổn sư cho đăng đàn thọ Cụ túc giới tại giới đàn chùa Bích Liên, Bình Định. Ngài được bổn sư phú pháp với pháp tự là Chánh Mậu, pháp hiệu Bích Nguyên. Sau khi đắc giới, ngài được cho đi tham học ở các Phật học viện như: Hải Đức (Nha Trang), Báo Quốc (Huế) và Ấn Quang (Sài Gòn).

Năm 1941, ngài vào hóa duyên tại tổ đình Linh Quang ở thành phố Đà Lạt. Năm 1945, ngài về khởi công xây dựng chùa Linh Phong ở Trại Hầm - Đà Lạt, với đồ án do chính ngài phác họa, tự tay xây cổng Tam quan mà chứng tích nay vẫn còn uy nghiêm, sừng sững trên triền dốc.

Năm 1950, Hội Phật học Trung phần đã tổ chức an cư tập trung tại chùa Linh Phong - Đà Lạt do ngài sáng lập. Khóa hạ này gồm có chư tôn Hòa thượng Thích Quang Nhuận, Thích Bích Nguyên, Thích Từ Mãn, Thích Thiện Minh, Thích Minh Cảnh, Thích Hoa Sơn… tham dự. Sau mùa an cư, với sự đề nghị của chư tôn đức, ngài đã hỷ cúng chùa Linh Phong để làm cơ sở cho Ni bộ tại tỉnh Lâm Viên, và ngôi Tam bảo này chính thức trở thành trụ sở của Ni bộ Bắc tông Lâm Viên vào năm 1952.

Năm 1953, Hòa thượng được Giáo hội cung thỉnh về làm trú trì chùa Linh Sơn-Đà Lạt và làm Hội trưởng Hội Phật giáo Lâm Viên. Trong khoảng thời gian này, ngài đã trực tiếp giáo dưỡng nhiều thế hệ Tăng sinh từ Phật học viện Hải Đức gởi lên chùa Linh Sơn tu học. Số Tăng sinh này sau này đã trở thành những vị tôn túc lãnh đạo Phật giáo, đơn cử như Hòa thượng Thích Nguyên Đức ở Phú Yên …

Năm 1963, trước sự kỳ thị tôn giáo của chế độ độc tài nhà Ngô, ngài cùng với chư tôn đức tỉnh Tuyên Đức (Đà Lạt) như Hòa thượng Thích Đạo Quang tham gia tranh đấu bảo vệ Phật giáo trong Pháp nạn 1963.

Năm 1964, khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được thành lập, vì tuổi cao sức yếu và vì tâm nguyện muốn được tịnh tu, ngài giao lại vị trí trú trì chùa Linh Sơn lại cho Hòa thượng Thích Từ Mãn và sau đó ngài được Giáo hội cung cử bổ nhiệm làm trú trì chùa Viên Giác, lãnh đạo Chi hội Phật giáo Cầu Đất.

Năm 1982, ngài được Giáo hội suy cử làm Chứng minh và Cố vấn Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Lâm Đồng. Suốt thời gian hóa đạo, Hòa thượng đã truyền giới cho nhiều Phật tử tại gia cũng như xuất gia. Các đệ tử xuất gia của ngài như các vị: Thật Trí, Thật Tánh, Thật Tâm (Không Trú), Thật Quán (Không Trung), v.v…

Trong cuộc đời tu hành, Hòa thượng luôn giữ nếp sống phạm hạnh, nghiêm trì giới luật, nhật trung nhất thực, ngày hai buổi công phu hôm sớm, hai thời thiền định. Đến lúc tuổi già sức yếu, ngài cũng không bao giờ trễ nải. Bài thơ “Gởi bạn” là một trong số nhiều cảm tác của Hòa thượng có thể được xem là nét tiêu biểu về quan niệm tu hành, công phu tu tập miên mật và thể hiện rõ cá tính của ngài:

GỞI BẠN

Gian khổ dù chi chẳng nại hà

Xả thân cầu đạo quyết ly gia

Ngồi trên nước đục bùn không nhuốm

Đứng dưới trăng nghiêng bóng chẳng tà

Học vấn noi theo gương Đức Phật

Tu hành quyết hướng cảnh Di Đà

Lấy gì tỏ nỗi tình chân thật

Xin tặng vần thơ chút gọi là.

Vào đầu hạ Đinh Mão 1987, ngài lâm bệnh nhẹ. Đến ngày 11 tháng Tư năm Đinh Mão, nhằm ngày 08.5.1987, Hòa thượng an nhiên thị tịch, trụ thế 88 tuổi, hạ lạp 51năm.

Trước khi thị tịch, ngài đã để lại bài kệ Di chúc cho môn đồ như sau:

Bích Nguyên viên tịch chớ băn khoăn

Đệ tử chôn sâu nhớ khỏa bằng

Mạng sống bập bềnh như bọt nước

Huyễn thân chốc lát tợ sương băng

Đừng buồn, đừng khóc, đừng thương tiếc

Không cúng, không thờ, không phục tang

Chỉ có tinh chuyên thường niệm Phật

Mới mong giải thoát đắc siêu thăng.

NAM MÔ TỪ LÂM TẾ CHÍNH TÔNG, TỨ THẬP TAM THẾ KHAI SƠN LINH PHONG TỰ, TRÚ TRÌ LINH SƠN TỰ, VIÊN GIÁC TỰ, HÚY THƯỢNG CHƠN HẠ THANH, TỰ CHÁNH MẬU, HIỆU BÍCH NGUYÊN ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG GIÁC LINH.

 


- Tiểu sử đăng trên trang nhà Quảng Đức

- Thượng tọa Thích Không Trú, chùa Cầu Đất, Đà Lạt cung cấp.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 2)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 1)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Những áng mây trắng - Thơ: Hoang Phong - Diễn ngâm: Hồng Vân
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 5
    • Số lượt truy cập : 6658315