HÒA THƯỢNG THÍCH ĐỔNG QUÁN (1926-2009)
Hòa Thượng pháp danh Thị Quảng, pháp tự Hạnh Nhơn, pháp hiệu Đổng Quán, nối pháp Thiền phái Lâm Tế đời thứ 42, dòng Chúc Thánh. Ngài thế danh Đỗ Châu Đức, sinh năm Bính Dần (1926), tại thôn Quan Quang, xã Nhơn Khánh, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngài sinh trưởng trong gia đình có truyền thống nhiều đời thâm tín Tam bảo. Thân phụ là cụ ông Đỗ Hoạch, thân mẫu là cụ bà Trần thị Tú. Thân sinh ngài có 5 người con, hai trai ba gái, hai người con trai xuất gia và trở thành những danh tăng có nhiều đóng góp cho Phật giáo miền Trung và cả nước, đó là Hòa thượng Thích Đổng Quán và Hòa thượng Thích Đổng Minh.
Tuy gia đình Hòa thượng sống ở nông thôn, nhưng song thân của ngài rất chú trọng đến giáo dục và học hành của con cái, nên từ thuở thiếu thời ngài đã được song thân cho theo học chữ Hán với các nhà Nho tại địa phương, đồng thời theo học chữ Quốc ngữ.
Nhờ túc duyên từ trước, ngài sớm nhận thức cuộc đời là vô thường, thế gian tạm bợ cho nên tâm nguyện xuất gia lúc nào cũng hun đúc trong lòng. Ngày Rằm tháng 8 năm 1941, ngài đến chùa Khánh Vân, thôn Văn Quang, xã Phước Quang xin tập sự sống đời sống xuất gia với Hòa thượng Chơn Quang (là chú ruột).
Năm 1942, ngài được Hòa thượng Thích Trí Thắng đưa vào chùa Thiền Lâm, Phan Rang. Nơi đây, ngài lạy Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Tân làm bổn sư và được cho pháp danh là Thị Quảng, ngài là vị đệ tử xuất gia đầu tiên của Hòa thượng Huyền Tân.
Năm 1943, sau khi xuất gia một năm, vì sự nghiệp hoằng dương Phật pháp, đào tạo tăng tài nên Hòa thượng bổn sư gửi ngài về Bình Định theo học lớp Phật pháp tại tổ đình Long Khánh, Quy Nhơn.
Từ năm 1946 đến năm 1953, ngài tu học tại chùa Hưng Long theo chương trình Trung học tại Trường Thị Nại ở Biểu Chánh. Cũng trong thời gian này, ngài cùng một số huynh đệ trong tỉnh Bình Định tiến hành một số công việc Phật sự.
Năm 1950, vâng lời Đại lão Hòa thượng Thích Giác Tánh, ngài cùng một số chư tăng trẻ Bình Định thành lập chúng Lục Hòa tại chùa Tịnh Liên, do Hòa thượng Giác Tánh lãnh đạo.
Sau ngày phân chia đất nước 1954 đến năm Mậu Tuất 1957, ngài cùng một số pháp hữu như: Hòa thượng Thích Đồng Thiện, Thích Tâm Hiện, Thích Liễu Không, Thích Từ Hạnh, Thích Thiện Nhơn, Thích Tâm Lâm… theo học lớp Trung đẳng Phật học tại Tăng học đường Trung Việt do Tổng hội Phật giáo Trung phần tổ chức tại chùa Long Sơn, Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, do Hòa thượng Thích Huyền Quang làm Giám đốc.
Năm Đinh Dậu 1957, ngài thọ giới Tỳ kheo tại Đại giới đàn chùa Long Sơn, Nha Trang do Đại lão Hòa thượng Thích Giác Nhiên làm Đường đầu truyền giới. Cũng trong thời gian này, ngài được Hội Phật giáo Trung phần đề cử đi thuyết giảng Phật pháp tại các tỉnh: Lâm Đồng, Ninh Thuận, Bình Thuận, Quảng Nam, Quảng Ngãi… Ngài là một trong số các vị giảng sư xuất sắc đương thời.
Do nhu cầu phát triển chung về giáo dục Phật giáo, từ năm 1957, Phật học đường Long Sơn-Nha Trang và Phật học đường Báo Quốc-Huế hợp nhất thành Phật học viện Trung phần, đặt tại chùa Hải Đức- Nha Trang, nơi đào tạo tăng tài cho cả nước. Ngài vinh dự là một trong những học tăng của trường này.
Năm Mậu Tuất 1958, sau khi học xong khóa học tại Phật học viện Trung phần Nha Trang, ngài cùng các pháp hữu trở về Bình Định cùng khởi xướng chương trình giáo dục và đào tạo tăng tài trong tỉnh.
Vì sự nghiệp hoằng dương Phật pháp, báo Phật ân đức, ngài cùng một số chư tôn đức tỉnh Bình Định khởi xướng thành lập Tu viện Nguyên Thiều và được sự hưởng ứng tham gia của hầu hết chư tôn thiền đức trong tỉnh. Ngày 15 tháng 8 năm Mậu tuất (27.9.1958), tu viện Nguyên Thiều được thành lập, ngài là một trong 12 thành viên sáng lập gồm quý Hòa thượng: Thích Giác Tánh, Thích Tâm Hoàn, Thích Huyền Quang, Thích Bảo An, Thích Quang Ngọc, Thích Minh Quang, Thích Bửu Quang, Thích Đồng Thiện, Thích Đổng Quán, Thích Liễu Không, Thích Thiện Nhơn, Thích Như Bửu, đồng thời ngài cũng là thành viên Ban Quản trị tu viện trong những ngày đầu thành lập.
Cuối năm 1963, Hội đồng Quản trị tu viện Nguyên Thiều quyết định thành lập Trường Bồ đề, xây dựng tại đồi Tháp Bạc (trước tu viện Nguyên Thiều). Sau vì chiến tranh Trường Bồ đề được dời về thị trấn Diêu Trì, huyện Tuy Phước, lấy tên là Trường Trung học tư thục Bồ Đề Nguyên Thiều Diêu Trì, Ban Quản trị nhất trí đề cử ngài làm Giám đốc.
Năm 1971, ngài khởi công tái thiết chùa Sắc tứ Tịnh Liên do Đại lão Hòa thượng Cao Minh khai sơn, tại thôn Liêm Trực, thị trấn Bình Định, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định.
Năm 1972, môn phái đề cử ngài đảm nhận chức vụ trú trì chùa Sắc tứ Thiên Hòa, thôn Tri Thiện, xã Phước Quang, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Sau khi nhận trú trì, ngài dự kiến và chuẩn bị đại trùng tu chùa, trong khi chuẩn bị các mặt cho việc trùng tu thì gặp phải giai đoạn xã hội thời cuộc thay đổi, kinh kế ngày một khó khăn, do vậy ý định trùng tu phải tạm thời dừng lại… Mãi đến năm 2000, khi đất nước bước vào giai đoạn đổi mới, kinh kế dần dần ổn định, công việc trùng tu mới bắt đầu tiến hành. Tuy nhiên, chùa thuộc vùng nông thôn, đồng bào Phật tử tại địa phương ít và kinh tế có hạn, nên việc trùng tu phải kéo dài nhiều năm chùa Thiên Hòa mới được khang trang như ngày hôm nay.
Suốt quãng đời tu học, hành đạo, ngài đã ở nhiều nơi nhưng có lẽ chùa Thiên Hòa là nơi ngài dừng chân lâu nhất, đồng thời chùa Thiên Hòa được như ngày hôm nay có sự đóng góp lớn lao của ngài.
Mặc dù đang bận nhiều công tác Phật sự, ngài vẫn dành thời gian tham cứu Phật pháp, đặc biệt ngài rất đắc ý với môn Duy thức học và để tâm trước tác quyển “Khái quát về nhân minh nhập chánh lý luận”. Ngoài ra ngài còn bỏ nhiều công sức sưu tầm, nghiên cứu lịch sử Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh.
Hòa thượng đã biên soạn và dịch một số tác phẩm như sau:
- Những tự viện khai sáng, tái thiết, hoằng dương theo Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh đã được truy tầm.
- Nhân minh luận giáo khoa.
- Kinh Kim Cang giáo khoa.
- Lược sử các Tổ đình.
- Tiểu sử các vị Danh tăng.
Đồng thời, Hòa thượng còn cộng tác với Ban Biên tập Tiểu sử Danh tăng Việt Nam thế kỷ 20.
Thuở sinh thời, ngài thường rất ưu tư về sự truyền thừa tông môn hệ phái, nhất là Thiền phái Chúc Thánh do Tổ sư Minh Hải-Pháp Bảo khai sáng và truyền bá khắp miền Nam. Thời gian trước năm 1975, dù có rất nhiều công việc Phật sự cần phải làm, nhưng ngài đã bắt đầu thu thập tài liệu về Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh…
Từ năm 2000, Hòa thượng dành nhiều thời gian đi thăm viếng khắp các tỉnh miền Trung và miền Nam, vận động chư tôn đức trong môn phái Lâm Tế Chúc Thánh thành lập Ban điều hành của môn phái. Sau nhiều năm kiên trì vận động, đến năm 2003, Ban điều hành lâm thời được hình thành và ngài được mời làm Trưởng ban điều hành lâm thời cho đến ngày viên tịch.
Ngày 17.12.2004 (01.11.Giáp Thân), ngày kỷ niệm Tổ khai sơn viên tịch, ngài được môn phái Chúc Thánh suy cử làm Trưởng ban trùng tu tổ đình Chúc Thánh tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.
Để ghi nhận và tán dương những đóng góp của ngài với Đạo pháp và Giáo hội. Tại Đại hội Phật giáo toàn quốc nhiệm kỳ V 2002-2007, ngài đã được Đại hội tấn phong lên hàng giáo phẩm Hòa thượng.
Trong sự nghiệp truyền đăng tục diệm, ngài đã hóa độ chúng đệ tử xuất gia và tại gia khá nhiều, đồng thời làm chỗ nương tựa tinh thần cho hàng Phật tử xa gần, nhất là nhân dân ở thôn Tri Thiện.
Hòa thượng có một đặc tính là hay chu du thăm viếng nhiều nơi, từ miền Nam, miền Trung cho đến miền Bắc, từ thành thị cho đến nông thôn, từ miền trung du cho đến miền núi, ngài thăm viếng bất kể nơi đâu từ ngôi tổ đình to lớn cho đến ngôi chùa nhỏ bé ở tận xa xôi, không phân biệt sơn môn, hệ phái, không so sánh vị đó là Hòa thượng, Thượng tọa hay người thủ tự hương khói cho chùa, dù Tăng, ni hay cư sĩ Phật tử, dù người đó là một vị cao tăng hay vì thiếu duyên đã hoàn tục. Ngài thường tâm sự: “Nếu đầy đủ nhân duyên tôi còn muốn được đi nhiều nước để tìm hiểu thêm về Phật giáo các nước”.
Hơn tám mươi năm hoằng pháp lợi sinh, tựa như một cỗ xe đến thời kỳ hư hoại, và cũng là quy luật tất yếu của kiếp người sanh lão bệnh tử, Hòa thượng đã lâm bệnh, mặc dù được môn phái, cũng như môn đồ pháp quyến và các y, bác sĩ Bệnh viện Chợ Rẫy, Thành phố Hồ Chí Minh, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Định tận tình chăm sóc chữa trị, nhưng tuổi cao sức yếu, Hòa thượng đã thuận thế vô thường, thâu thần viên tịch vào lúc 14 giờ 30 ngày 26 tháng Giêng năm Kỷ Sửu (nhằm ngày 20 tháng 02 năm 2009) tại Sắc tứ tổ đình Thiên Hòa, thôn Tri Thiện, xã Phước Quang, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Ngài trụ thế 84 năm, 53 hạ lạp.
Cuộc đời và sự nghiệp của Hòa thượng có những đóng góp thiết thực cho Phật giáo Việt Nam và Phật giáo Bình Định nói riêng trong nhiều lĩnh vực, nhất là phương diện kiến tạo cơ sở giáo dục cũng như kiến thiết, trùng tu nhiều ngôi chùa làm nơi sinh hoạt, tu học cho nhiều thế hệ Tăng ni, Phật tử. Đặc biệt, Hòa thượng rất linh hoạt trong ứng đối văn chương và kinh nghiệm xây dựng, nhất là các công trình cổ kính. Với tính tình thẳng thắn, ít khi chịu qụy lụy bất cứ ai, suốt cuộc đời của ngài từ lúc xuất gia tu học đến lúc viên tịch, lúc nào cũng nghĩ đến đạo pháp và dân tộc. Hòa thượng đã có những đóng góp quý giá cho nền móng đạo pháp cửu trụ ở cõi Ta bà.
NAM MÔ LÂM TẾ CHÁNH TÔNG, TỨ THẬP NHỊ THẾ, THÀNH VIÊN SÁNG LẬP TU VIỆN NGUYÊN THIỀU, TRÙNG TU TỊNH LIÊN, THIÊN HÒA TỰ, HÚY THƯỢNG THỊ HẠ QUẢNG, TỰ HẠNH NHƠN, HIỆU ĐỔNG QUÁN HÒA THƯỢNG GIÁC LINH.
- Tham khảo tiểu sử đăng trên http://www.chuabuuminhgialai.com
- Tỳ kheo Đồng Bổn biên tập lại.
Tin tức khác
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 31 – THÁNG 1 NĂM 2020
- NHÂN VẬT PHẬT GIÁO VIỆT NAM
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 30 – THÁNG 10 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 29 – THÁNG 7 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 28 – THÁNG 4 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 27 – THÁNG 1 NĂM 2019 (PL. 2562)
Bình luận bài viết