HÒA THƯỢNG THÍCH HUỆ QUANG (1927-2009)
Hòa thượng Thích Huệ Quang, pháp húy Không Hành, pháp tự Từ Tâm, pháp hiệu Huệ Quang, thuộc dòng Lâm Tế chánh tông đời thứ 41. Thế danh Dương Quyền. Ngài sinh ngày 10 tháng 01 năm Đinh Mão (1927) tại thôn Phước Hải, huyện Vĩnh Xương, tỉnh Khánh Hòa.
Thân phụ là cụ Dương Dõng, người gốc ở Gia Định, phủ Long An, tổng Long Hưng Hạ, xã Phước Lợi, là người sùng kính Tam bảo. Sinh thời, thân phụ của ngài thủ chức Kinh Thơ lại nê tấn thừa sự, tỉnh Gia Định, hàm Bát phẩm. Sau đó, gia đình ra làm ăn, sinh sống tại Khánh Hòa, ở vùng Lục Đồn, Nha Trang.
Thân mẫu là cụ bà Huỳnh Thị Na, người ở thôn Tân Tế, phủ Ninh Hòa, Khánh Hòa. Ngài là người con thứ ba trong gia đình có 4 người con. Năm 13 tuổi ngài đậu Sơ học Yếu lược. Năm 1939, ngài tham học Cours Prémier tại Trường Kim Yến, Nha Trang. Sau khi thân phụ ngài qua đời, ngài luôn cận kề bên thân mẫu để chăm dưỡng mẹ già. Mỗi lần về quê thăm mẹ, ngài thường viếng chùa Thiên Bửu Thượng (phủ Ninh Hòa) và từ đó ngài xin học đạo với Hòa thượng trụ trì, huý Chơn Du, tự Chánh Thức, hiệu Nhơn Thiện. Nơi đây, ngài được Hòa thượng Nhơn Hoằng hướng dẫn học đạo.
Sau khi Tổ Nhơn Thiện về Nha Trang, đảm nhiệm trụ trì chùa Đông Phước. Năm 1942 (Nhâm Ngọ), năm ngài 15 tuổi, xin xuất gia tại đây và được bổn sư cho pháp danh Không Hành. Lúc này vừa học đạo, vừa học Hán văn với thầy Nguyễn Đức Trọng (tức Nguyễn Hoành) được gần 4 năm thì Cách mạng Tháng Tám 1945 (Ất Dậu) bùng lên.
Lúc bấy giờ, do chiến tranh hổn loạn, chùa Đông Phước bị giặc đốt, cả xóm gần chùa cũng bị đốt phá. Ngài đưa mẫu thân về Ninh Hòa để lánh nạn. Đến năm 1948 (Mậu Tý), mẹ ngài qua đời.
Năm 23 tuổi, với lòng quyết chí học đạo, nên ngài trở về lại chùa Đông Phước thọ giáo với Hòa thượng Thích Minh Huệ và được phú pháp tự là Từ Tâm.
Đến năm Nhâm Thìn (1952), lúc 25 tuổi, ngài thọ Cụ túc giới tại Giới đàn chùa Thiên Bửu, Ninh Hòa, do Tăng cang Hòa thượng Thích Trí Thắng, Viện chủ chùa Thiên Hưng, Phan Rang làm Đàn đầu truyền giới.
Từ đó, ngài sớm hôm học đạo với bổn sư là Hòa thượng Thích Minh Huệ. Đến năm 1959, Hòa thượng Thích Minh Huệ viên tịch. Năm 1960, được bổn tự, bổn đạo cung thỉnh ngài làm trụ trì chùa Đông Phước.
Cũng năm đó (1960), ngài được Hòa thượng Thích Bích Lâm, Viện chủ tổ đình Nghĩa Phương phú pháp Nhãn Tạng, đặt hiệu là Huệ Quang, là pháp tử đầu tiên môn phong Nghĩa Phương.
Từ năm 1962, ngoài trách nhiệm tại bổn tự, ngài còn tham gia công tác giáo hội, như:
- Năm 1962, tu bổ chùa Đông Phước lần thứ nhất, vì bị chiến tranh làm hư sập.
- Năm 1966, Phó Tăng trưởng Tỉnh hội Phật giáo Cổ truyền Khánh Hòa.
- Từ năm 1968 đến năm 1975, ngài được suy cử làm Tăng trưởng Tỉnh hội Phật giáo Cổ truyền Khánh Hòa.
- Từ năm 1970 đến năm 1973, ngài kiêm chức Tổng Thư ký Ban Đại diện Phật giáo Cổ truyền Trung phần.
- Từ năm 1972 đến năm 1975, ngài lập Trường Tiểu học Bát Nhã nằm ở sau chùa để dạy dỗ con em Phật tử nghèo.
Sau khi đất nước thống nhất, Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập, ngài được đề cử vào:
- Từ năm 1982, Uỷ viên Hoằng pháp, Ban Trị sự tỉnh hội Phật giáo tỉnh Phú Khánh, nhiệm kỳ I (1982- 1985) và nhiệm kỳ II (1986-1989).
- Trưởng Ban Hoằng pháp Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa, nhiệm kỳ 1991-1994 và lưu đến năm 1996.
Trong suốt thời gian hành đạo, Hòa thượng Thích Huệ Quang đã đảm nhận nhiều trọng trách trong các giới đàn truyền giới trên cả nước như:
- Ngày 27 tháng 9 Nhâm Dần (1962), Đệ tứ Tôn chứng, tại Giới đàn chùa Long Quang, Phú Nhuận, Sài Gòn.
- Năm Ất Tỵ (1965), Đệ nhất Tôn chứng Giới đàn chùa Thiền Lâm, Quận 6, đường Lục Tỉnh, Sài Gòn.
- Ngày 26 tháng 2 Mậu Thân (1968), được suy tôn Giáo thọ A xà lê sư, tại giới đàn chùa Phật Ấn, đường Trần Hưng Đạo, Sài Gòn.
- Ngày 15 tháng 3 Kỷ Dậu (1969), được suy tôn Yết ma A xà lê sư, tại giới đàn chùa Nghĩa Phú, xã Hòa Thắng, huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.
- Ngày 10 tháng 4 Canh Tuất (1970), ngài được chư sơn tôn cử ngôi vị Tuyên Luật sư.
- Ngày 15 tháng 7 Canh Tuất (1980), được Chư tôn giáo phẩm Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam suy tôn phẩm vị Hòa thượng tại giới đàn chùa Cổ tích Bửu Phong, thành phố Biên Hòa.
Về truyền pháp độ sanh, ngài là Thành viên Ban Chức sự các Giới đàn như:
- Năm 1963, Ban Tổ chức Giới đàn chùa Sắc tứ Minh Tịnh, Quy Nhơn.
- Năm 1993, thành viên Ban Chức sự Giới đàn tại chùa Long Sơn…
Với ngài, đạo pháp và dân tộc luôn đồng hành, vì thế năm 1945, thời kỳ chống Pháp, ngài tham gia trong hàng ngũ Việt Minh; 1949, bị Pháp bắt ở tù 8 tháng tại Nha Trang.
Sau khi đất nước thống nhất, ngài tham gia Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phường Phước Hải từ năm 1979 đến năm 1993, trải qua 5 nhiệm kỳ với các chức vụ: Ủy viên, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phường Phước Hải.
Hội đồng Nhân dân phường Phước Hải khóa 4.
Từ năm 1989 đến năm 1996, 2 nhiệm kỳ ngài là thành viên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Nha Trang.
Hòa thượng đã được nhiều giấy khen của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Nha Trang.
Năm 1996, được tặng thưởng Huy chương Vì sự nghiệp Đoàn kết dân tộc của Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Tại Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ V (2004-2007) Giáo hội Phật giáo Việt Nam, ngài được tấn phong giáo phẩm Hòa thượng.
- Tại Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ VI (2007-2012) Giáo hội Phật giáo Việt Nam, ngài được suy tôn làm thành viên Hội đồng Chứng minh Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Về biên dịch, Hòa thượng đã dịch nghĩa bộ "Nghi thức Thiền môn Chánh độ", các nghi lễ thông dụng trong ứng phó Đạo tràng; viết tiểu sử Tổ Khai sơn chùa Đông Phước; biên soạn lịch sử chùa Đông Phước. Ngoài ra, ngài đặt câu liễn đối, viết thư pháp cho nhiều tự viện trong tỉnh cũng như ngoài tỉnh.
Sau hơn 50 năm hành đạo, ngài đã đào tạo được một đội ngũ kế thừa có đạo hạnh, năng lực, tham gia công tác Phật sự của tỉnh hội cũng như đáp ứng yêu cầu các Phật sự của chùa khi Phật tử cần đến.
Từ năm 2007, dù đã ở tuổi ngoài 80, ngài vẫn quyết tâm chống gậy để Đại trùng tu hoàn thiện ngôi phạm vũ Đông Phước như ngày nay.
Thuận thế vô thường, thân tứ đại mỏi mòn theo nhật nguyệt; sau một thời gian lâm trọng bệnh, tuy được môn phong huynh đệ, môn đồ pháp quyến, cùng quý vị y, bác sĩ tận tình chăm sóc, chữa trị, song vì tuổi cao sức yếu, Hòa thượng đã thâu thần an nhiên thị tịch, vào lúc nửa đêm 01 giờ 20 ngày 10 tháng 7 năm Kỷ Sửu (2009), tại ngôi chùa Đông Phước - nơi mà 67 năm về trước ngài đã xuất gia. Ngài trụ thế 83 năm, hạ lạp 57 năm.
- Bản tiểu sử do Tỳ kheo Trí Bửu soạn trong lễ tưởng niệm lần thứ 5 (10/7/Kỷ Sửu, 2009 - 10/7/Giáp Ngọ, 2014)
- Đăng trên trang nhà www.chuadida.com
- Tỳ kheo Đồng Bổn sưu tầm và biên tập lại.
Tin tức khác
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 31 – THÁNG 1 NĂM 2020
- NHÂN VẬT PHẬT GIÁO VIỆT NAM
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 30 – THÁNG 10 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 29 – THÁNG 7 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 28 – THÁNG 4 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 27 – THÁNG 1 NĂM 2019 (PL. 2562)
Bình luận bài viết