HÒA THƯỢNG THÍCH HƯƠNG SƠN (1912-1975)
Hòa thượng húy Lê Thùy, pháp danh Thị Năng, pháp tự Trí Hữu, pháp hiệu Hương Sơn, sinh năm Quý Sửu (1912), tại làng Quá Giáng, huyện Điện Bàn,tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình Nho học và tin Phật. Thân phụ ngài húy Lê Cát, thân mẫu là Kiều Thị Đính. Gia đình có mười hai người con; ngài là con thứ bảy trong gia đình.
Năm 8 tuổi (1920), ngài cầu thầy học đạo với Tổ sư Như Thông (chùa Linh Ứng-Quảng Nam). Năm 19 tuổi, ngài được bổn sư cho thọ giới Sa di tại chùa Linh Ứng.
Từ năm 1935 đến 1937, ngài theo học với quý Thiền sư Giác Phong (chùa Phổ Thiên-Đà Nẵng), Thiền sư Phước Huệ, và Thiền sư Trí Độ (chùa Báo Quốc-Huế).
Năm 27 tuổi (1939), ngài thọ Cụ túc giới do bổn sư truyền Phương trượng, nối pháp Thiền phái Lâm Tế đời thứ 42, dòng kệ Chúc Thánh. Ngài tốt nghiệp chương trình Cao đẳng Phật học vào năm 33 tuổi (1945). Sau khi học xong, ngài vân du vào Nam hóa đạo.
Năm Kỷ Sửu 1949, ngài lập ngôi tịnh thất lấy tên là Ứng Quang tại vườn Bà Lớn, ngã ba Vườn Lài, Chợ Lớn để tu niệm, đồng thời mở lớp dạy chúng điệu mới xuất gia các chùa lân cận. Trong thời gian này, ngài cộng tác viết bài thường xuyên nơi mục: Phật học Danh số trên tạp chí Từ Quang do đạo hữu Chánh Trí-Mai Thọ Truyền, Hội trưởng Hội Phật học Nam Việt chủ trương.
Năm 1950, ngài cùng với quý Hòa thượng Thiện Hòa, Thiện Hoa, Nhật Liên hợp nhất các Phật học đường Liên Hải, Sùng Đức thành Phật học đường Nam Việt mà cơ sở Ứng Quang do ngài hiến tặng Hòa thượng Thiện Hòa, dùng làm địa bàn kết nạp Tăng sinh. Ngài còn giữ chức Kiểm Khán, kiêm giảng sư Phật học đường Nam Việt, làm giáo thọ và giảng dạy tại các Ni trường Dược Sư, Từ Nghiêm, Huệ Lâm.
Năm 39 tuổi (1951), ngài được đề cử giữ chức Ủy viên Tổng Trị sự Tổng hội Phật giáo Việt Nam trong kỳ đại hội Tổng hội Phật giáo Việt Nam toàn quốc lần thứ I, khai mạc tại chùa Từ Đàm - Huế.
Năm 1957, ngài rời chùa Ấn Quang, trở về chùa Linh Ứng-Quảng Nam, nơi đầu tiên xuất gia tu học để đảm nhận chức trú trì, vì nhu cầu Phật sự.
Năm 1959, ngài được cử đọc tham luận trước Đại hội Tổng hội Phật giáo Việt Nam toàn quốc lần II, khai mạc tại chùa Ấn Quang với 4 mục tiêu:
1) Chỉnh đốn nội bộ Tăng Ni về mọi mặt;
2) Thống nhất ba Giáo hội Bắc Trung Nam;
3) Tiến tới việc thực hiện giáo quyền và thành lập Viện Tăng thống Phật giáo Việt Nam;
4) Tiếp tục theo gương cao cả của chư Tổ để lãnh đạo, truyền bá chánh pháp cho Phật giáo Việt Nam ngày càng vững mạnh.
Năm 1960, Phật học viện Phổ Đà - Đà Nẵng thành lập tại chùa Phổ Thiên, ngài được mời làm Giám viện cho đến ngày viên tịch năm 1975.
Năm 1961, ngài được cung thỉnh vào chức vụ Trị sự trưởng Giáo hội Tăng già Quảng Nam – Đà Nẵng.
Năm 1962, ngài được cử trú trì chùa Tỉnh Hội Đà Nẵng.
Năm 1964, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất thành lập, ngài được Viện Hóa Đạo cử làm Chánh Đại diện miền Liễu Quán.
Ngài vận động đại trùng tu tổ đình Linh Ứng năm 1972 được quang huy tráng lệ, xứng đáng tòa Phật ngự Phạm vũ huy hoàng như hiện nay.
Năm 1973, ngài được tấn phong lên hàng giáo phẩm Hòa thượng và được thỉnh cử vào Hội đồng Giáo phẩm Viện Tăng thống, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
Công hạnh tu trì và hoằng pháp của ngài cũng khá đặc biệt mà ít ai biết đến, đặc biệt trong 2 năm từ 1957 đến 1959:
* Công hạnh tu trì:
a) Chặt 2 ngón tay út để cúng dường Phật do lời phát nguyện của ngài.
b) Thay vì chỉ đốt 3 liều hương như phần nhiều các Tỳ kheo khác, ngài đốt tới 6 liều trên đầu, 3 liều ở giữa nhân trung và 3 liều song song theo đó.
* Hoằng pháp, dịch thuật:
Ngoài vai trò trú trì hai ngôi chùa: chùa Linh Ứng và chùa Tỉnh Hội, ngài còn là Giám viện Phật học viện Phổ Đà và Giáo thọ dạy chúng tại các đạo tràng Linh Ứng, Phổ Thiên… rất bận rộn, vất vả, ngài vẫn cố vấn chỉ đạo đôn đốc thành lập các chùa, như:
- Chùa Hòa Phước (1950),
- Chùa Bảo Minh (1965) tại Hòa Vang,
- Chùa Từ Quang,
- Chùa Bích Trâm,
- Chùa La Thọ tại Điện Bàn - Quảng Nam.
Ngài thao thức cho tiền đồ Phật giáo, nên dù bận rộn thế mấy vẫn tranh thủ thời gian phiên dịch và sáng tác như một số tác phẩm tiêu biểu:
- Kinh Viên Giác
- Lời Phật dạy (phỏng dịch)
- Duy Thức dị giản
- Kinh Phật địa, ấn hành năm 1959, tái bản tại Úc năm 2006
- Phật học danh số: đăng nhiều kỳ trên tạp chí Từ Quang
- Lịch sử Ngũ Hành Sơn (sáng tác) (1)
Hàng đệ tử xuất gia của ngài, trở thành những bậc lỗi lạc trong chốn tòng lâm, trong và ngoài nước, như:
- Hòa thượng Thích Thiện Nguyện, kế thế trụ trì chùa Linh Ứng, Ngũ Hành Sơn, Quảng Nam (nay thuộc TP. Đà Nẵng).
- Hòa thượng Thích Thanh An, Mỹ quốc.
- Hòa thượng Thích Bảo Lạc, Úc châu.
- Hòa thượng Thích Thanh Thế, chùa Thánh Đức, Đức Trọng, Lâm Dồng.
- Hòa thượng Thích Hoằng Khai, chùa Già Lam, TP. Hồ Chí Minh.
- Thượng tọa Bảo Quang, trú xứ Quảng Nam...
Hòa thượng viên tịch năm Ất Mão vào ngày 28 tháng 11 âm lịch (nhằm ngày 30 tháng 12 năm 1975) tại chùa Ấn Quang - Sài Gòn, nơi mà trước đây ngài đã hiến tặng làm Trung tâm Hoằng pháp cho Phật giáo sau này.
Hòa thượng trụ thế 63 năm, với 36 mùa an cư kiết hạ. Sau lễ Trà tỳ, hài cốt ngài đuợc phân làm 2 phần: một phần thờ tại chùa Ấn Quang, và một phần đưa về thờ nơi bảo tháp tại tổ đình Linh Ứng, Ngũ Hành Sơn.
NAM MÔ TỪ LÂM TẾ CHÁNH TÔN, TỨ THẬP NHỊ THẾ, KHAI SƠN ẤN QUANG TỰ, TRÙNG KIẾN TRÚ TRÌ LINH ỨNG TỰ, THƯỢNG THỊ HẠ NĂNG, TỰ TRÍ HỮU, HIỆU HƯƠNG SƠN HÒA THƯỢNG GIÁC LINH.
(1) Lịch sử Ngũ Hành Sơn đã được tái bản tại Úc năm 2006 và 2002.
- Tài liệu do HT Hoằng Khai soạn lục và HT Bảo Lạc bổ túc
- Tiểu sử đăng trên trang nhà Quảng Đức www.quangduc.com
- Đăng trên trang nhà Hành trạng chư Thiền đức xứ Quảng www.vnbet.vn
- Tỳ kheo Đồng Bổn sưu tầm và biên tập lại.
Tin tức khác
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 31 – THÁNG 1 NĂM 2020
- NHÂN VẬT PHẬT GIÁO VIỆT NAM
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 30 – THÁNG 10 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 29 – THÁNG 7 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 28 – THÁNG 4 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 27 – THÁNG 1 NĂM 2019 (PL. 2562)
Bình luận bài viết