Thông tin

HÒA THƯỢNG THÍCH LIỄU KHÔNG (1930-1999)

 

 

Hòa thượng Thích Liễu Không, pháp danh Thị Duật, pháp tự Hạnh Pháp, thế danh Nguyễn Xuân Đệ, sinh ngày 20 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), tại thôn Hữu Pháp, xã Cát Chánh, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Thân phụ của ngài là cụ ông Nguyễn Nhạc, pháp danh Như Thiện, thân mẫu là cụ bà Huỳnh Thị Hoài, pháp danh Thị Lân. Ông bà có ba người con: hai người con gái và ngài là người con trai duy nhất. Cả gia đình đều là Phật tử chùa Thiên Bình.

Năm Canh Thìn 1940, khi lên 10 tuổi, ngài tỏ ra căn tánh sáng suốt lanh lẹ và rất có căn duyên với Phật, nên song thân quyết định cho ngài xuất gia với Hòa thượng Thích Tâm Đạt, Viện chủ chùa Thiên Bình. Ngài được Hòa thượng bổn sư phú pháp cho pháp danh là Thị Duật. Kể từ đó, ngài chuyên tâm thọ trì kinh luật, sớm hôm thờ thầy, tinh tấn chuyên cần không một chút giải đãi.

Năm Canh Dần 1950, lúc đó ngài vừa 20 tuổi, nhận thấy khả năng thông suốt kinh luận của ngài, nên Hòa thượng bổn sư cho ngài thọ Tam đàn cụ túc tại giới đàn tổ đình Thiên Bình do Hòa thượng Huệ Chiếu đương kiêm trú trì tổ đình Thập Tháp làm đường đầu truyền giới. Ngài đã đắc pháp và được bổn sư phú pháp cho pháp tự là Hạnh Pháp, pháp hiệu là Liễu Không, nối pháp đời thứ 42 Thiền phái Lâm Tế, dòng kệ Chúc Thánh.

Cũng trong năm này, ngài được mời làm Bí thư Phật giáo Cứu quốc xã Nhơn Phong. Ngài là một thành viên xuất sắc nhất trong sự vận động chuyển hướng Phật sự do Phật giáo Cứu quốc Liên Khu 5 khởi xướng. Lúc đó, ngài được đề bạt lên công tác Phật sự tại Liên Khu 5, đóng tại huyện An Nhơn.

Năm Quý Tỵ 1953, ngài được bầu làm Thư ký Hội Phật giáo Việt Nam huyện An Nhơn và được đề cử vào đoàn thanh tra của Hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Bình Định.

Sau hiệp định Genève năm 1954, đất nước bị chia đôi, ngài cùng 18 huynh đệ trong và ngoài tỉnh đã đi bộ băng núi rừng vượt đèo Cù Mông, đèo Cả đến tòng học tại Phật học viện Trung phần Nha Trang, dưới sự lãnh đạo của Hòa thượng Thích Trí Nghiêm. Hòa thượng Thích Huyền Quang đặt trách cho ngài làm quản lý nhà in Hoa Sen do Tổng hội Phật giáo Việt Nam Trung phần sáng lập, để làm kinh tế tự túc cho Phật học viện thời bấy giờ.

Đầu năm Mậu Tuất 1958, ngài là thành viên sáng lập Tu viện Nguyên Thiều, cùng với chư tôn đức Phật giáo Bình Định.

Năm Canh Tý 1960, Tổng hội Phật giáo Việt Nam Trung phần phân công ngài về làm Phật sự tại Bình Định. Ngài được mời làm Hội trưởng Hội Phật giáo huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định.

Năm Nhâm Dần 1962, Đại lão Hòa thượng bổn sư Thích Tâm Đạt đã triệu tập chư tăng môn hạ về để trạch cử người thừa kế. Ngài đã được môn hạ suy cử làm trụ trì tổ đình Thiên Bình.

Năm Quý Mão 1963, ngài là một thành viên đắc lực trong phong trào chống chế độ kỳ thị tôn giáo Ngô Đình Diệm. Ngài bị tù đày tại nhà lao Quy Nhơn, sau đó được Hòa thượng Thích Tâm Hoàn nhân danh Hội Phật giáo Bình Định vào nhà lao bảo lãnh ngài.

Năm Giáp Thìn 1964, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được thành lập, ngài được mời làm Chánh Đại diện Phật giáo Việt Nam Thống nhất huyện An Nhơn, trải qua hai nhiệm kỳ.

Từ năm 1973-1977, ngài làm Tổng Thư ký Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tỉnh Bình Định.

Năm Ất Mão 1975, khi đất nước được thống nhất, ngài bắt tay tái thiết toàn bộ ngôi tổ đình Thiên Bình bị chiến tranh tàn phá.

Năm Nhâm Tuất 1982, ngài được mời làm Phó Ban Thường trực Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Bình Định. Lúc bấy giờ, ngài gởi nhiều văn thư đến các cấp chính quyền yêu cầu hoàn trả hai ngôi chùa Từ Phước, Từ Hải ở Quảng Ngãi và cơ sở Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Bình Định.

Trong sự nghiệp hành đạo của ngài, ngoài việc tái thiết tổ đình Thiên Bình, ngài còn khai sơn các ngôi chùa, như: chùa Hưng Quang, chùa Kim Long, chùa Giác Hải và trùng tu chùa Chi hội An Nhơn, chùa Thiên Hưng, chùa Phước Hưng, chùa Phước Sa, chùa Thiên Long, chùa Thiên Ân, v.v...

Vì sự nghiệp hoằng pháp độ sanh, ngài luôn gắn liền cuộc đời mình với vận mệnh thịnh suy của đất nước và dân tộc. Ngài không ngại gian lao không hề khó nhọc, nhất là những năm 1979-1992, tuy tuổi già sức yếu, nhưng Hòa thượng cũng thể theo tinh thần tu học của chư tăng và hàng Phật tử tại gia nên đã tổ chức nhiều khóa An cư kiết hạ tại tổ đình Thiên Bình và chùa Chi hội An Nhơn, hướng dẫn dạy dỗ kinh luật cho hai chúng tại gia và xuất gia.

Đến lúc sắc thân tứ đại theo định luật vô thường chi phối, Hòa thượng lâm trọng bệnh. Tuy bệnh duyên hoành hành nhưng ngài tỉnh giác và nhất niệm, luôn luôn nhắc nhở chư Tăng ni và Phật tử tín đồ phải tinh tấn tu hành, phụng sự đạo pháp và dân tộc.

Thế rồi sức khỏe của Hòa thượng ngày càng yếu dần, ngài đã thâu thần thị tịch vào lúc 11 giờ 30 sáng ngày 29 tháng 7 năm 1999, nhằm ngày 17 tháng 6 năm Kỷ Mão, thọ thế 70 tuổi, hạ lạp 50 năm.

NAM MÔ TỰ LÂM TẾ CHÁNH TÔN TỨ THẬP NHỊ THẾ, THIÊN BÌNH ĐƯỜNG THƯỢNG, HUÝ THƯỢNG THỊ HẠ DUẬT TỰ HẠNH PHÁP, HIỆU LIỄU KHÔNG HÒA THƯỢNG GIÁC LINH.

 


- Tiểu sử đăng trong mục Nhân vật Phật giáo Việt Nam, website quangduc.com

- Biên tập: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 13)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 12)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 11)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Thái Giải
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 113
    • Số lượt truy cập : 6949823