Thông tin

HÒA THƯỢNG THÍCH MÃN GIÁC (1929-2006)

 

 

Hòa thượng Thích Mãn Giác vốn dòng họ Võ, sinh năm Kỷ Tỵ 1929, tại Huế, trong một gia đình mà nội, ngoại đều tin Phật và nhiều nguời trong thân quyến đã có duyên xuất gia và nổi tiếng thân danh trên đường tác thành Phật sự. Thừa Thiên-Huế chỉ là sinh quán, còn nguyên quán thuộc làng Phương Lang, quận Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.

Sau khi học xong chương trình Tiểu học Yếu lược và được lên lớp Nhì Nhứt niên, tuổi đời mới lên 10, Hòa thượng Thích Trí Thủ là người anh cô cậu ruột đã có duyên xuất gia từ trước, đã hướng dẫn người em và gửi gắm đến với Hòa thượng Thích Quảng Huệ, trú trì chùa Thiên Minh, Huế cho nhập đạo tu hành.

Năm 16 tuổi, Giáp Thân, 1944, ngài được Hòa thượng thế độ thọ giới Sa di, pháp danh Nguyên Cao, tự Mãn Giác, đạo hiệu Huyền Không tại chùa Thiên Minh và sau đó được thọ giới chính thức tại Giới đàn Thuyền Tôn do Đại Lão Hòa thượng Thích Giác Nhiên làm Đường đầu Hòa thượng, Hòa thượng Thích Tịnh Khiết làm Yết ma, Hòa thượng Thích Đắc Quang (chùa Quốc Ân) làm Giáo thọ. Trong Giới đàn này, Thiền sư Thích Mật Thể đỗ Thủ Sa di, Thích Trí Quả làm Vỹ Sa di và Sư bà Thích nữ Diệu Không cũng được nhận Đại giới Tỳ kheo ni.

Năm Kỷ Sửu, 1948, cùng với học tăng cùng học chương trình Đại học Phật giáo tại Phật học đường Báo Quốc được tiếp nhận giới bổn Tỳ kheo trong Đại giới đàn do Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết làm Đường đầu, Đại lão Hòa thượng Thích Giác Nhiên làm Yết ma, Hòa thượng Thích Vĩnh Thừa (Châu Lâm) làm Giáo thọ. Giới đàn này quy tụ các học chúng ưu tú mà sau này trở thành các nhân sự lãnh đạo Phật giáo nổi tiếng như:

- Hòa thượng Thích Thiện Siêu làm Thủ Sa di.

- Hòa thượng Thích Thiện Minh làm Vỹ Sa di.

Các ngài đã lèo lái con thuyền Phật giáo Việt Nam vượt qua nhiều cơn giông bão. Cùng thọ giới với ngài Mãn Giác năm này còn có các vị thạc đức tha thiết hoạt động trong lãnh vực văn hóa, giáo dục sau này như: Hòa thượng Thích Thiên Ân, Hòa thượng Thích Đức Tâm... là những vị đã từng học và đã đồng tốt nghiệp chương trình Đại học Phật giáo niên khóa 1951-1952 trên Hàm Long Sơn, Huế.

Năm 1950, Canh Dần, sau lễ Chung thất của Hòa thượng bổn sư vừa viên tịch, Hòa thượng Thích Giác Nguyên, Trưởng pháp phái, đã chiếu tập Chư sơn Giáo hội Huế: Hòa thượng Thích Quảng Nhuận, trú trì tổ đình Từ Quang, huynh đệ trong cùng môn phái Thiên Minh như Thích Châu Phong (Nguyễn Phương Danh), Thích Châu Ninh, Thích Châu Sơn, Thích Châu Đức, Thích nữ Diệu Âm... hội họp và suy cử Sa môn Thích Mãn Giác giữ chức vụ trú trì chùa Thiên Minh để tiếp tục nối dòng pháp phái.

Từ năm 1954, Sơn môn Huế và Hội Phật học Trung phần công cử ngài đến làm giảng sư tại Đà Lạt, vài năm sau kiêm nhiệm chức vụ Hội trưởng Hội Phật giáo Đà Lạt, Đại diện Hội Phật giáo Cao nguyên Trung phần. Đây là những năm tháng gắn bó với Phật sự, dấu chân hoằng pháp in đậm trên mọi miền và đem lại rất nhiều an ủi cho quần chúng.

Năm 1960, ngài được đi du học Nhật Bổn.

Cuối năm 1965, sau khi tốt nghiệp tiến sĩ, ngài tham gia giảng dạy tại Đại học Văn Khoa Sài Gòn và Huế qua bộ môn Triết học Ấn Độ và Trung Hoa. Đây cũng là thời gian mà Sa môn Mãn Giác thực sự dấn thân vào các hoạt động văn hóa, giáo dục. Từ đó, ngài bắt đầu cộng tác chặt chẽ với Viện Đại học Vạn Hạnh (Viện Đại học đầu tiên của Phật giáo) do Hòa thượng Thích Minh Châu làm Viện trưởng. Sa môn Thích Mãn Giác giữ cương vị Khoa trưởng Phân khoa Phật học và Triết học Đông phương. Và trong vài năm sau đó, ngài kiêm nhiệm Phó Viện trưởng Điều hành Viện Đại học Vạn Hạnh cho tới ngày thống nhất đất nước 1975.

Từ ngày về lại nước, một mặt, Sa môn Mãn Giác hoạt động trong môi trường văn hóa, giáo dục của Đời lẫn Đạo, mặt khác còn dấn thân tích cực trong các Phật sự của Giáo hội. Những vai trò mà Sa môn Mãn Giác từng đảm trách với Giáo hội như:

- Quyền Tổng Vụ trưởng Thanh niên (Tổ chức Đại hội Thanh niên toàn quốc)

- Tổng Vụ trưởng Văn hóa (Tổ chức Đại hội Văn hóa toàn quốc)

- Trưởng Ban tổ chức nhiều năm Đại lễ Phật đản trọng thể tại Sài Gòn.

Năm 1977, Sa môn Mãn Giác chính thức định cư tại Hoa Kỳ, làm Viện chủ chùa Việt Nam tại Los Angeles và là Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ, một tập hợp gồm nhiều chùa, Hội Phật giáo Việt Nam trải khắp đất nước Hoa Kỳ. Trong cương vị Hội chủ, với hơn 25 năm hành đạo trên đất mới, tâm niệm và hành tác như trọn đời vẫn là hướng về chăm lo cho chùa Tổ ở quê nhà, tiếp dẫn hậu lai nơi hải ngoại. Những việc cần làm sẽ và đã làm xong, cuối đời, lòng bình an như thảnh thơi mây trắng.

Sa môn Mãn Giác, qua đạo hiệu Huyền Không là một hồn thơ Đạo. Tiếng thơ rộn rã trong hơn một ngàn bài gói trọn tâm hồn và gương mặt tác giả thu được gồm 5 tập:

- Không bến hạn

- Hương Trần Gian

- Không Gian Thành Chiếc Áo

- Kẻ Lữ Hành Cô Độc

- Mây Trắng Thong Dong

Ngoài ra, về phương diện phiên dịch, biên soạn... ngài còn để lại trên 20 cuốn sách giá trị cho nhiều đối tượng người đọc khác nhau. Đi vào khu rừng nhận thức trù phú ấy, người ta có thể tha hồ gặt hái những nụ đẹp cành mềm, những hương và những sắc nồng nàn mà lý tưởng một đời của người mài miệt trồng rừng là chỉ làm đẹp đời sống văn hóa, làm đẹp tâm hồn con người.

Vào đầu tháng 8 năm 2006, Hòa thượng cảm thấy pháp thể khiếm an, mặc dù được các hàng đệ tử, các y, bác sĩ tận tình chăm sóc chữa trị, nhưng vì tuổi cao sức yếu, ngài đã không qua khỏi. Ngài đã an tường xả báo thân lúc 8 giờ 25 sáng giờ Cali, ngày thứ sáu, 13.10. 2006, nhằm ngày 22. 8 Bính Tuất, trụ thế 78 tuổi đời, 65 pháp lạp.

Suốt cuộc đời, từ khi xuất gia hành đạo cho đến lúc viên tịch, Hòa thượng Thích Mãn Giác đã nỗ lực không ngừng trong công việc xiển dương đạo pháp và văn hóa dân tộc. Cuộc đời ngài là một tấm gương sáng ngời về đạo hạnh và sự nghiệp hoằng hóa cho Tăng ni và Phật tử noi theo. Mặc dù sắc thân của ngài không còn nữa, nhưng đạo hạnh và sự nghiệp hoằng hóa của ngài sẽ mãi mãi là ngọn đuốc soi đường cho Tăng ni, Phật tử Việt Nam ở mai sau.

 


- Tư liệu do Tỳ kheo Thích Nguyên Tạng lược ghi.

- Tiểu sử đăng trên trang nhà Quảng Đức.

- Tỳ kheo Đồng Bổn biên tập lại.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 13)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 12)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 11)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Thái Giải
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 83
    • Số lượt truy cập : 6949677