HÒA THƯỢNG THÍCH NGUYÊN NGÔN (1938-2005)
Hòa thượng thế danh là Phan Thanh Bình, sau đổi tên là Phan Chín, sinh năm Mậu Dần 1938 tại làng Vĩnh Lộc, xã Bình Hòa, huyện Bình Khê (nay là huyện Tây Sơn), tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ ông Phan Liễn. Thân mẫu là cụ bà Hà Thị Bộ. Ngài có tất cả 10 người anh chị em, trong đó hai người mất sớm.
Từ năm 1956 đến 1970, song thân và ba người anh trai của ngài đã lần lượt nằm xuống, góp phần bảo vệ quê hương, giành lại độc lập khỏi ách thống trị của ngoại bang.
Được sự hướng dẫn của song thân, gia đình của ngài đều quy y Tam bảo tại chùa Vĩnh Lộc với Tổ Huệ Chiếu, nhờ đó cả gia đình đều trở thành Phật tử thuần thành, hết lòng kính tin Tam bảo. Riêng ngài khi được Tổ Huệ Chiếu thí giới khai tâm, có pháp danh là Nguyên Ngôn, như ngầm thọ ký rằng trong tương lai thiện nam tử này sẽ trở thành một bậc sứ giả Như Lai với tâm nguyện truyền thừa nguyên ngữ chánh pháp của đức Phật.
Nhờ căn lành xuất thế đã gieo trồng trong nhiều kiếp, lại có khuynh hướng ưa chuộng đời sống đạm bạc của nhà thiền, tham cầu học đạo, ngài đã không tiếp nối sự nghiệp của cha anh theo đường cách mạng, mà chọn con đường thoát tục.
Năm 1952, khi vừa tròn 15 tuổi, được sự cho phép của mẹ, ngài đã được thế phát xuất gia với Hòa thượng Như Nguyện, hiệu Tâm Đạo, tại tổ đình Nhạn Sơn - một trong các di tích lịch sử của thôn Nhạn Tháp, xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngài được bổn sư đặt pháp danh là Thị Lộc, tự Thành Văn, nối pháp dòng Lâm Tế đời thứ 42, pháp phái Chúc Thánh.
Từ thập niên 1950, chốn Tổ này cũng chính là Trường Sơ đẳng Phật học của tỉnh nhà. Dưới sự hướng dẫn của thầy bổn sư, ngài được theo học với các bậc danh tăng thạc đức thời bấy giờ từ năm 1955 đến 1957. Khi tròn 20 tuổi (1957), Tổ đình Nhạn Sơn mở giới đàn, ngài được bổn sư cho lãnh giới pháp Sa di, giới đàn này do Hòa thượng Huệ Chiếu làm đàn đầu truyền giới, Hòa thượng Trí Diệu làm Yết ma, Hòa thượng Trí Nhàn làm Giáo thọ.
Sau khi thọ giới, ngài tiếp tục theo học lớp Trung đẳng Phật học tại tổ đình Thập Tháp, tỉnh Bình Định. Cũng tại nơi này, ngài lãnh hội được yếu chỉ Phật pháp, phát tâm dũng mãnh tu hành, trở thành một trong những học tăng ưu tú của trường. Nhờ thành tích đặc biệt này, sau khi học xong học kỳ một của năm thứ nhất, ngài là một trong bốn Tăng sinh xuất sắc được chư tôn đức Ban Đốc giáo tuyển chọn, gởi vào Phật học đường Nam Việt, tức chùa Ứng Quang, nay là tổ đình Ấn Quang, đề tiếp tục tu học.
Tại Phật học đường này, ngài đã được tham học với các danh tăng nổi tiếng của thế kỷ 20 như quý Hòa thượng Thiện Hoa, Thiện Hòa, Trí Tịnh, Trí Quang, Nhất Hạnh và Hoàn Quan. Vài năm sau đó, ngài theo học Phật học viện Phước Hòa, thuộc tỉnh Trà Vinh, dưới sự chủ giảng của Hòa thượng Thích Thanh Từ.
Năm 1960, sau khi tốt nghiệp lớp Phật học tại Phật học viện Phước Hòa, ngài lại trở về tổ đình Ấn Quang, tiếp tục theo học chương trình Trung đẳng Phật học, niên khóa 1960-1964.
Năm 1962, Phật học đường Nam Việt mở giới đàn cho học Tăng tại chùa Ấn Quang, ngài được thọ Cụ túc giới do Hòa thượng Thiện Hòa làm đàn đầu truyền giới, Hòa thượng Hành Trụ làm Tuyên luật sư, Hòa thượng Thiện Hoa làm Giáo thọ. Lúc này ngài được 25 tuổi.
Từ năm 1966-1969, để đào sâu nội điển song song với ngoại điển như một nhu cầu không thể thiếu đối với các sứ giả hoằng pháp lúc bấy giờ, ngài theo học chương trình Cử nhân Phật khoa tại Đại học Vạn Hạnh. Cũng thời điểm này, ngài vừa học thêm chương trình Cử nhân Hán Nôm, và được mời làm giáo thọ tại các trường Trung học Bồ Đề ở Sài Gòn - Chợ Lớn.
Với chí nguyện hoằng pháp lợi sanh, báo Phật ân đức của bậc sứ giả Như Lai, khi còn ngồi ghế học đường, từ những năm từ 1966 đến 1973, ngài đã dấn thân giảng dạy cho rất nhiều Tăng ni và Phật tử tại các tự viện, đạo tràng ở Sài Gòn và Lục Tỉnh.
Năm 1974, với nhiều thành tích trong lãnh vực hoằng pháp, ngài được chư tôn đức Viện Hóa Đạo bổ nhiệm chức vụ Tổng Thư ký Tổng vụ Hoằng pháp Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, đồng thời trợ lý đặc biệt cho Hòa thượng Tổng Vụ trưởng Tổng vụ Hoằng pháp Thích Huyền Vi.
Với khả năng kiêm ưu trong lãnh vực trước tác và biên tập, ngài được mời làm Thư ký Đặc san Hoằng Pháp của Tổng vụ Hoằng pháp. Đặc san này mang hương vị pháp âm, gắn liền với tinh thần nhập thế, đáp ứng nhu cầu học Phật đa dạng của quảng đại quần chúng thời bấy giờ.
Năm 1978, với tài đức kiêm ưu, ngài được Viện Hóa Đạo bổ nhiệm làm Chánh Đại diện Phật giáo quận 10, TP. Hồ Chí Minh.
Từ năm 1980 đến 1984, ngài làm giáo thọ sư Phật học viện Sơ đẳng Thiện Hòa tại chùa Giác Ngộ và Trung đẳng Phật học tại chùa Ấn Quang, quận 10, TP. Hồ Chí Minh.
Từ năm 1984, khi các Phật học viện trong Sài Gòn ngưng hoạt động, ngài vẫn tiếp tục giảng dạy gia giáo tại các tự viện trong thành phố như chùa Ấn Quang, chùa Giác Sanh, chùa Giác Ngộ, chùa Từ Nghiêm, chùa Hưng Phước, chùa Bồ Đề Lan Nhã v.v… theo phương châm: “Nơi nào cần chánh pháp, xin phát nguyện dấn thân”. Có những đêm mưa tầm tã, ngài vẫn không ngại lao nhọc, cưỡi chiếc xe đạp cọc cạch, đến giảng dạy tại các giảng đường. Đôi lúc vì hoàn cảnh khách quan, số lượng học viên chỉ còn vài ba người, ngài vẫn không sờn chí nản lòng, tha thiết với những lời pháp âm trầm bổng, hùng hồn.
Năm 1989, khi Trường Trung cấp Phật học TP. Hồ Chí Minh được thành lập tại chùa Vĩnh Nghiêm, ngài tiếp tục tham gia giảng dạy. Kể từ khi có lớp Cao đẳng Phật học, ngài trở thành một trong các giáo thọ sư để lại nhiều ấn tượng về kinh nghiệm tu học sâu sắc nhất trong khi truyền thụ cho nhiều thế hệ tăng ni sinh các chất liệu chánh pháp, vừa mang tính triết lý nhưng lại không kém phần ứng dụng thực tế.
Nói chung, về giáo dục và hoằng pháp, ngài không bao giờ từ nan giảng dạy Phật pháp cho bất kỳ các trường Phật học, các trường hạ, các khóa bồi dưỡng trụ trì, các khóa đào tạo và bồi dưỡng giảng sư, cho đến các đạo tràng ở các tự viện, bất luận lớn nhỏ. Cuộc đời dấn thân và hoằng hóa của ngài đã thực hiện trọn vẹn tôn chỉ hoằng pháp của cố Hòa thượng Viện trưởng Thích Thiện Hoa: “Nơi nào Phật pháp cần, con đến; nơi nào chúng sanh cần, con đi; chẳng ngại gian lao, chẳng từ khó nhọc”. Với gương hạnh cao cả và đặc biệt đó, Hòa thượng thật xứng đáng là vị đại sứ giả của Như Lai.
Trên đường hoằng pháp lợi sanh, lúc đầu ngài chủ yếu tập trung vào hai Phật sự quan trọng là giáo dục và hoằng pháp. Nhưng kể từ khi được Hòa thượng Thích Hoàn Quan, một bậc đại giáo thọ sư của các Phật học viện, nhiều lần mời gọi làm trụ trì, ngài đã về trú tại chùa Khánh Vân, chăm lo ngôi Tam bảo, tiếp tăng độ chúng. Ngày 12.11.1996, ngài chính thức được Hòa thượng Trưởng Ban Trị sự Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh lúc bấy giờ ký bổ nhiệm trụ trì.
Từ ngày làm trụ trì chùa Khánh Vân, ngài đã xây dựng nhà thờ Tiêu Diện và Hộ Pháp, tu sửa bàn thờ Tổ, trang hoàng lại nơi tôn thờ các Tổ sư hữu công với Phật giáo, kiến dựng bảo tháp (sinh phần) cho Hòa thượng nghiệp sư, xây dựng nhà thờ linh cốt, trùng tu Chánh điện và kiến dựng mới dãy nhà Tăng rất khang trang, rộng rãi, lòng những mong làm nơi cư trú tu học cho chư tăng hữu duyên, có phương tiện tốt trong sinh hoạt tu học.
Mặc dù bận rất nhiều Phật sự, đặc biệt là công việc giảng dạy, Hòa thượng vẫn không quên việc biên soạn và dịch thuật một số tác phẩm Phật học trọng yếu.
Trong số các tác phẩm dịch và chú giải của ngài, có thể kể:
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm,
- Kinh Viên Giác,
- Bát Nhã Tâm Kinh,
- Kinh Pháp Bảo Đàn,
- Kinh Bát Đại Nhơn Giác,
- Đại Thừa Khởi Tín Luận,
- Phát Bồ Đề Tâm Luận, v.v...
Ngoài ra, Hòa thượng còn biên soạn một số giáo trình cho các lớp Trung đẳng và Cao đẳng Phật học như:
- Duy Thức Học Cương Yếu,
- Bát Thức Quy Củ,
- Bách Pháp Minh Môn Luận,
- Sáu Pháp Hòa Kính,
- Tam Vô Lậu Học
Và hầu hết các bài khóa trong bộ Phật Học Phổ Thông, với một giáo trình độc lập và chi tiết. Hầu hết các tác phẩm, dịch phẩm và giáo trình này đều còn dưới dạng cảo bản, chỉ phổ biến nội bộ cho các tăng ni sinh nghiên cứu học tập, chưa ấn hành chính thức.
Sáng ngày 18.5.2005 nhằm ngày 11 tháng 4 Ất Dậu, Hòa thượng đã an nhiên trút hơi thở cuối cùng vào lúc 18 giờ 45 phút ngày 19.5.2005 nhằm ngày 12 tháng 4 Ất Dậu. Nhập đạo 54 năm. Hạ lạp 43 mùa an cư kiết hạ. Trụ thế 68 năm.
NAM-MÔ TỰ LÂM TẾ CHÁNH TÔNG, TỨ THẬP NHỊ THẾ, NHẠN SƠN ĐƯỜNG THƯỢNG, KHÁNH VÂN TỰ TRỤ TRÌ, HUÝ THỊ LỘC, TỰ THÀNH VĂN, HIỆU NGUYÊN NGÔN HÒA THƯỢNG GIÁC LINH.
- Trang nhà Phật Giáo Đại Chúng www.lebichson.org
- Trang nhà www.quangduc.com
- Theo bản tiểu sử của Ban tổ chức tang lễ, HT thọ giới Sa di năm 1955, khi ngài 18 tuổi tại tổ đình Nhạn sơn. Nhưng theo tư liệu Ban biên tập, thì giới đàn này được tổ chức tại tổ đình Nhạn Sơn vào năm 1957, trước khi HT đến tổ đình Thập Tháp học lớp Trung đẳng. Như thế HT thực thụ thọ Sa di giới năm 20 tuổi.
- Nguyên trong tiểu sử, không nói ngài thọ đại giới năm nào. Trích lục hồ sơ thọ giói, thì thấy HT thọ Tỳ kheo giới ngày 31.07.1962 tại giới đàn chùa Ấn Quang, đồng thọ giới Tỳ kheo với HT là các ngài Phước Định, Phước Nhơn, Minh Thành… Như thế HT thọ đại giới vào năm 25 tuổi.
- Tỳ kheo Thích Đồng Bổn biên tập lại.
Tin tức khác
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 31 – THÁNG 1 NĂM 2020
- NHÂN VẬT PHẬT GIÁO VIỆT NAM
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 30 – THÁNG 10 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 29 – THÁNG 7 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 28 – THÁNG 4 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 27 – THÁNG 1 NĂM 2019 (PL. 2562)
Bình luận bài viết