Thông tin

HÒA THƯỢNG THÍCH PHƯỚC THÀNH (1918-2014)

 

 

Hòa thượng Thích Phước Thành sinh ngày Rằm tháng 10 năm Mậu Ngọ (1918), tại thôn Đức Phổ, xã Cát Minh, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Thân phụ ngài là cụ ông Phạm Lộ, pháp danh Quảng Lộ, thân mẫu là cụ bà Phạm Thị Phi, pháp danh Quảng Thí. Gia đình gồm có chín người con, bốn trai năm gái, ngài thứ bảy nên bà con Phật tử trong vùng quen gọi ngài là “thầy Bảy” hay “ngài Bảy”. Em út ngài là Phạm Thiện Huệ, pháp danh Quảng Chư, là Hòa thượng trú trì chùa Ngưỡng Quan, Bá Canh, Đập Đá, An Nhơn, Bình Định.

Gia đình ngài có truyền thống đạo đức, hiếu học. Song thân là Phật tử thuần thành. Ngài bẩm tính hiền lương, chất trực, siêng năng, kham nhẫn. Từ nhỏ được chú ruột tận tình dạy dỗ. Ngài được học chữ Hán và chữ Quốc ngữ. Đến năm 12 tuổi, ngài đã học được nhiều kinh sách Nho gia.

Thuở nhỏ sớm có nhân duyên thâm sâu với Phật pháp, được thân cận với nhiều bậc cao đức, năm 12 tuổi (1930), ngài xuất gia tại chùa Phước Hải cùng thôn, do Thiền sư Nguyên Quì, hiệu Trí Minh làm lễ quy y và thế độ.

Từ đó, ngài theo bổn sư tu học, nhờ căn trí mẫn tiệp nên chóng thông hiểu kinh luật để rồi bảy năm sau (1937) được truyền Tam đàn thọ cụ túc tại Đại giới đàn chùa Tịnh Lâm, xã Cát Chánh, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định do Hòa thượng Huyền Giác, trú trì chùa Tịnh Lâm, tổ chức và làm Đường Đầu Hòa thượng; Hòa thượng Giác Nhiên làm Yết ma A xà lê; Hòa thượng Hoằng Thông làm Giáo thọ A xà lê. (Căn cứ tờ Hộ giới điệp cấp ngày 13 tháng 6 năm Đinh Sửu tức 20.07.1937). Lúc ấy, ngài 19 tuổi.

Ngài siêng năng học tập, tụng kinh, lễ sám, trau dồi công đức, đặc biệt là học chữ quốc ngữ vì thời bấy giờ Việt ngữ rất cần thiết cho ngài trong quan hệ nghiên cứu, học tập, thọ trì kinh luật luận. Ngài đi bộ hàng chục cây số, theo học chữ quốc ngữ với thầy Thanh Bình ở thôn An Lương, xã Mỹ Chánh, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.

Năm 22 tuổi (Canh Thìn-1940), ngài cùng bổn sư đến đảm nhiệm Phật sự chùa Thiên Phước (tiền thân là Phước An Thiền Tự) do hương chức cùng đồng bào Phật tử trong vùng cầu thỉnh, vì nhiều năm trước đây chùa không có trụ trì trở nên hoang vắng. Ngài giúp bổn sư tu bổ rồi ở lại trông coi chùa này để bổn sư trở về Phước Hải tự. Từ giai đoạn này trở đi, ngài liên tục nỗ lực trông nom và tu bổ chùa Thiên Phước do bổn sư giao phó. Nhiệm vụ nặng nề, ngài không có điều kiện tham học tại các trường xa. Nhưng sự hiếu học, khiêm tốn đã làm động lực giúp ngài luôn luôn học hỏi, nghiên tầm kinh luật, tự trau dồi giới đức ngày càng trang nghiêm, thanh tịnh.

Đến năm Nhâm Thìn (1952), bổn sư quy tịch thì ngài chính thức làm trú trì Thiên Phước tự, khi ấy ngài tròn 34 tuổi.

Năm 50 tuổi (1968), ngài có duyên được Hòa thượng Thọ Sơn (Phước Sơn) truyền dạy pháp Du già, Chẩn thí khoa nghi.

Từ ấy đến nay, ngài từng đảm nhiệm các chức vụ như sau:

- Từ năm 1947-1948, ngài đã tham gia Hội Phật giáo Cứu quốc quận Phù Mỹ với cương vị Chủ tịch.

- Từ năm 1956-1963, ngài làm Tuần chúng (lãnh tuần chúng) Giáo hội Tăng già tỉnh Bình Định. (Căn cứ Chứng minh thư do ngài Đệ nhất Tăng thống Thích Tịnh Khiết ký cấp).

- Từ năm 1957-1963, ngài cùng với Hòa thượng Thích Đổng Quang đảm nhiệm chức vụ Chi hội trưởng Phật giáo quận Phù Mỹ.

- Từ năm 1963-1981, ngài nhiều lần làm Chánh Đại diện Giáo hội Phật giáo huyện Phù Mỹ.

- Từ năm 1991-1995, ngài làm Phó Trưởng Ban Trị sự đặc trách Tăng sự Giáo hội Phật giáo tỉnh Bình Định.

- Năm Nhâm Thân (1992), ngài được cung thỉnh làm Cố vấn Giáo thọ Trường Cơ bản Phật học Nguyên Thiều, Bình Định.

- Năm Bính Tý (1996), sau khi Hòa thượng Thích Kế Châu, Trưởng Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo tỉnh Bình Định viên tịch, chư Tăng suy cử ngài tiếp nối lãnh đạo Phật giáo tỉnh.

- Năm Đinh Sửu (1997), ngài được Giáo hội Phật giáo Việt Nam tấn phong Hòa thượng và suy tôn vào Hội đồng Chứng minh Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

- Từ năm 1997-2002, ngài làm Trưởng Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo tỉnh Bình Định nhiệm kỳ II.

- Từ năm Nhâm Ngọ (2002) về sau, ngài được cung thỉnh làm Chứng minh Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo tỉnh Bình Định.

Ngoài ra, ngài còn được cung thỉnh vào các Đại giới đàn trong và ngoài tỉnh, ngoài nước:

- Năm Nhâm Thìn (1952), Tôn chứng Giới đàn chùa Thiên Bình, xã Nhơn Phong, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định.

- Năm Mậu Thân (1968), Đệ nhất Tôn chứng Đại giới đàn Long Khánh, TP. Quy Nhơn.

- Năm Kỷ Tỵ (1989), Chánh Chủ đàn Đại giới đàn Nguyên Thiều, tổ đình Long Khánh, TP. Quy Nhơn.

- Năm Giáp Tuất (1994), Yết ma A xà lê Đại giới đàn Phước Huệ, tổ đình Long Khánh, TP. Quy Nhơn.

- Năm Canh Thìn (2000), Đường đầu Hòa thượng Đại giới đàn Chánh Nhơn, tổ đình Long Khánh, TP. Quy Nhơn.

- Năm Quý Mùi (2003), Đường đầu Hòa thượng Đại giới đàn A Nan Đà Giác Tánh, tại tu viện Vạn Hạnh, thủ đô Canbera, Úc.

- Năm Giáp Thân (2004), Đường đầu Hòa thượng Đại giới đàn Huệ Chiếu, tổ đình Long Khánh, TP. Quy Nhơn.

- Năm Mậu Tý (2008), Đường đầu Hòa thượng Đại giới đàn Giác Tánh, tổ đình Long Khánh, TP. Quy Nhơn.

- Năm Canh Dần (2010), Chứng minh Đại giới đàn Cam Lộ, chùa Minh Thành, TP. Pleiku, tỉnh Gia Lai.

- Năm Quý Tỵ (2013), Chứng minh Đại giới đàn Kế Châu, tổ đình Long Khánh, TP. Quy Nhơn, Bình Định và Đại giới đàn Bồ tát Quảng Đức, chùa Long Sơn, TP. Nha Trang, Khánh Hòa.

Trong những năm 1965-1977, ngài mở Trường Tiểu học Tư thục Bồ Đề Pháp Vân trong khuôn viên chùa, hơn mười năm tổ chức dạy miễn phí, vừa để giúp con em học sinh trong vùng không có điều kiện đi học xa, góp phần xóa nạn mù chữ, vừa để có phương tiện tiếp Tăng độ chúng.

Suốt cuộc đời hành đạo, ngài tích cực tham gia, tổ chức nhiều hoạt động với mục đích an sinh xã hội nên vào năm 2006, Hội Chữ Thập Đỏ Việt Nam quyết định trao tặng ngài Kỷ niệm chương vì đã có thành tích xuất sắc trong phong trào nhân đạo xã hội.

Nhiều năm liền, Hòa thượng là thành viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp. Ngài được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Vì sự ngiệp đại đoàn kết dân tộc.

Về công đức trùng tu xây dựng:

- Năm Đinh Dậu (1957), ngài trùng tu Đại hùng Bảo điện chùa Thiên Phước, đồng thời tu bổ các bảo tích phù đồ. Cuối năm, ngài tổ chức Đại lễ khánh thành.

- Năm Mậu Tuất (1958), ngài đúc Đại hồng chung, Báo chúng chung, Gia trì chung và các pháp khí khác. Trong năm này, ngài còn tạc tượng, sơn son thiếp vàng kim thân Phật tổ, chạm khắc long vị, liễn đối.

- Năm Kỷ Hợi (1959), Hòa thượng khai sơn chùa Phổ Đà Quan Âm, thôn Vạn Ninh, xã Mỹ Tài, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. Cùng năm này, ngài trùng kiến chùa Tịnh Quang, thôn Thái An, xã Mỹ Tài, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định và đổi tên thành chùa Giác Viên.

- Năm Nhâm Dần (1962), ngài xây cất nhà Hậu tổ, nhà Đông, nhà Tây, nhà chúng và nhà trù.

- Năm Quý Dậu (1993), ngài tái lập chùa Phổ Đà Quan Âm và đổi tên thành chùaVạn Đức.

- Năm Mậu Dần (1998), Hòa thượng xây dựng tường thành xung quanh chùa và tôn dựng Quan Âm Các.

Phật sự nào cần, ngài đều có mặt, không ngại gian nan, không từ khó nhọc. Đức độ của Hòa thượng vang xa, ai nghe đến cũng đều kính ngưỡng.

Phật sự tổ đình Thiên Phước xây cất còn đang dang dở, Hoà thượng đã thuận thế vô thường, xả báo an tường, tịnh nhiên thị tịch trong sự hộ niệm của tứ chúng đệ tử và Tăng ni vào lúc 05 giờ ngày 18 tháng 01 năm 2014 (nhằm ngày 18 tháng Chạp năm Quý Tỵ) tại tổ đình Thiên Phước, xã Mỹ Hiệp, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. Trụ thế 101 năm, 72 năm Hạ lạp.

 


- Tiểu sử do môn đồ pháp quyến ghi lại.

- Đăng trên trang nhà Phật Giáo Việt Nam và các trang mạng khác.

- Tỳ kheo Đồng Bổn sưu tầm và biên tập.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 13)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 12)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 11)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Thái Giải
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 111
    • Số lượt truy cập : 6949849