HÒA THƯỢNG THÍCH THANH CHỈNH (1919-2009)
Hòa thượng Thích Thanh Chỉnh, thế danh Nguyễn Phú Chỉnh, sinh năm Kỷ Mùi 1919, tại thôn Nguyệt Áng, xã Đại Áng, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Ngài sinh trưởng trong một gia đình nề nếp, giàu lòng kính tin Tam bảo. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Phú Khả, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Thìn, ngài là người con thứ 3 trong gia đình có 7 anh chị em (6 trai 1 gái).
Lúc thiếu thời, ngài luôn là người con ngoan, hiếu thảo trong gia đình. Từ nhỏ, ngài được song thân cho theo học chữ Nho với cụ Cử trong làng và thường cho ngài đi theo cùng lễ Phật ở các chốn tổ đình lớn trong vùng. Do nhân duyên đó, ngài đã sớm khởi tâm mến mộ đạo Phật. Nhờ thiện duyên do song thân vun đắp, lại có sẵn tâm Bồ đề nên ngài đã sớm có chí nguyện xuất gia cầu đạo.
Năm 1932, khi vừa tròn 13 tuổi, song thân đưa ngài đến đảnh lễ Sư tổ Thích Thanh Soạn, trụ trì tổ đình Hoa Lâm, thôn Khê Hồi, xã Hà Hồi, huyện Thường Tín, Hà Nội xin xuất gia và được Sư tổ hoan hỷ hứa khả thâu nhận, ban cho pháp danh là Thanh Chỉnh.
Thế là như phùng túc nguyện, duyên lành hội đủ, Bát nhã hoa khai, từ đó, ngài sớm tối chuyên cần hầu thầy chấp lao phục dịch, duy trì thời khóa, giữ gìn quy củ thiền môn.
Năm 1935, trải qua thời gian nỗ lực tinh cần tu học Phật pháp không mệt mỏi, đến năm 16 tuổi, ngài được nghiệp sư cho phép đăng đàn cầu giới Sa di tại giới đàn Hoa Lâm nhân dịp giỗ Tổ đệ lục ngày 20 tháng 3 Âm lịch. Sau khi thụ giới Sa di, ngài được nghiệp sư và các bậc tôn túc trong sơn môn trực tiếp dạy bảo tại tổ đình Hoa Lâm.
Năm 1940, khi được 21 tuổi, ngài được Hòa thượng nghiệp sư cho đăng đàn thụ giới Cụ túc tại giới đàn tổ đình Hoa Lâm, do Sư tổ Thanh Chỉnh, Viện chủ chùa Thiền Quy, Pháp chủ sơn môn làm Đàn đầu Hòa thượng. Từ đây, giới châu viên mãn, ngài chính thức dự vào hàng Tăng bảo.
Với tâm nguyện phải chuyên tâm tu học, trau dồi Giới định tuệ, nên ngài từ biệt thầy tổ huynh đệ để du phương học đạo, khi thì ở chốn tổ Linh Quang-Bà Đá, lúc thì đến tùng lâm Quán Sứ, ở đâu ngài cũng được thầy mến bạn yêu vì đức hạnh chăm học chăm làm và luôn được các bậc cao tăng thạc đức như Tổ Tuệ Tạng, Hòa thượng Tố Liên… ân cần dạy bảo.
Năm 1969, Trung ương Hội Phật giáo Thống nhất mở khóa đào tạo Tăng ni tại tổ đình Quảng Bá, ngài cũng tham gia học tập dưới sự giảng dạy của Hòa thượng Trí Độ, Hòa thượng Tâm An, Hòa thượng Đức Nhuận, Cư sĩ Tâm Minh-Lê Đình Thám…
Năm 1946, khi ngài 27 tuổi, ngài được Hòa thượng nghiệp sư chỉ định về trụ trì chùa Khánh Phúc, xã Duyên Hà, huyện Thanh Trì thuộc sơn môn đang thiếu người trông nom. Ngài vừa tham học vừa trụ trì chùa để duy trì nề nếp, phục vụ tín ngưỡng của nhân dân và Phật tử địa phương.
Năm 1950, ngài về trụ trì chùa Vạn Phúc, cũng thuộc sơn môn.
Năm 1954, Hòa thượng nghiệp sư viên tịch, ngài về tổ đình Hoa Lâm lo việc tang lễ và ở lại nối pháp đời thứ 8 tổ đình Hoa Lâm thờ thầy phụng Phật. Tại đây, hàng năm ngài đều mở các khóa an cư kiết hạ cho Tăng ni sơn môn về tu học. Trong các khóa an cư này, ngài đều được Tăng sai làm Chánh Duy na để duy trì kỷ cương phép tắc.
Trong suốt quãng thời gian kế thế trụ trì, dù ở đâu ngài cũng đều miệt mài xả thân tác phúc để sửa sang chùa cảnh, làm tròn trách nhiệm của trưởng tử Như lai.
Hàng năm, tại các giới đàn do Thành hội Hà Nội tổ chức, với giới đức kiêm ưu ngài luôn luôn được thỉnh làm Giới sư trong ngôi Đàn đầu Hòa thượng để truyền trao giới châu tuệ mạng cho hàng hậu học tiến đạo nghiêm thân. Ngoài ra, ngài còn làm thầy truyền trao Tam quy ngũ giới cho biết bao lượt Phật tử thủ đô.
Ngoài trách nhiệm kế thế trụ trì, ngài còn tham gia các công tác Phật sự cùng chư tôn đức gánh vác và xây dựng ngôi nhà chung Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Năm 1947, ngài giữ chức Phó Chủ tịch, kiêm Chánh Thư ký Hội Phật giáo Cứu quốc huyện Thanh Trì do Hòa thượng Việt Yên làm Chủ tịch.
Năm 1958, Thành hội Phật giáo Hà Nội được thành lập do Hòa thượng Mật Ứng làm Trưởng ban, ngài được bổ nhiệm làm Chánh Đại diện Phật giáo huyện Thanh Trì. Trên cương vị đó, ngài luôn quan tâm thăm hỏi các chùa, động viên Tăng ni Phật tử tích cực tham gia sản xuất góp phần ổn định kinh tế của nhà chùa và xã hội.
Từ năm 1971 đến năm 1992, ngài được Ban Trị sự Thành hội Phật giáo Hà Nội suy cử chức Chánh Thư ký Ban Trị sự. Cũng trong thời gian này, ngài được tín nhiệm bầu làm đại biểu Hội đồng Nhân dân thành phố Hà Nội khóa VIII (1981-1985) và là Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Hà Nội khóa IX.
Năm 1981, tại Đại hội Đại biểu thống nhất Phật giáo Toàn quốc, ngài được bầu làm Ủy viên Hội đồng Trị sự, kiêm Ủy viên Ban Hoằng pháp Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Năm 1987, tại Đại hội kỳ II Giáo hội Phật giáo Việt Nam, ngài được bầu vào Ban Thường trực Hội đồng Trị sự, kiêm Phó Ban Kinh tế Tài chánh Trung ương.
Năm 1992, ngài đã cùng đoàn Đại biểu Tăng ni Thủ đô dự Đại hội kỳ III Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Tại đại hội này, ngài được tấn phong lên hàng giáo phẩm Hòa thượng.
Tháng 8 năm 1997, tại Đại hội kỳ IV Thành hội Phật giáo Hà Nội, ngài được suy cử giữ chức vụ Phó Trưởng Ban Trị sự, kiêm Trưởng Ban Giáo dục Tăng ni của Thành hội. Cũng trong năm này, tại Đại hội Đại biểu Phật giáo Toàn quốc lần thứ IV, Hòa thượng được suy tôn vào Hội đồng Chứng minh Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Tháng 8 năm 2002, Thành hội Phật giáo thành phố Hà Nội tổ chức Đại hội kỳ V, ngài được suy cử giữ chức vụ Trưởng Ban Trị sự, kiêm Trưởng Ban Hoằng pháp Thành hội; Hiệu trưởng Trường Trung cấp Phật học Hà Nội.
Đến tháng 12 năm 2002, tại Đại hội Đại biểu Phật giáo Toàn quốc lần thứ V, ngài được suy cử giữ chức Phó Thư ký Hội đồng Chứng minh và Ủy viên Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Tháng 12 năm 2008, tại Hội nghị hợp nhất Thành hội Phật giáo Hà Nội và Tỉnh hội Phật giáo Hà Tây, theo sự chỉ đạo của Trung ương Giáo hội và Nghị quyết của Quốc hội về việc mở rộng địa giới hành chính thủ đô, Hòa thượng được suy tôn vào Ban Chứng minh Ban Trị sự Thành hội Phật giáo Hà Nội mới.
Với những công lao to lớn đóng góp cho đạo pháp và dân tộc, Hòa thượng đã được tặng thưởng nhiều Huân - Huy chương và Bằng khen, như:
- Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì do Nhà nước trao tặng ngày 16.12.1985.
- Huy chương Vì sự nghiệp Đại đoàn kết toàn dân do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tặng ngày 25.12.1990.
- Bằng khen do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Hà Nội tặng ngày 10.11.1973.
- Bằng khen đã có Thành tích trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia.
Những năm tháng cuối cùng, tuy tuổi cao sức yếu nhưng tinh thần còn minh mẫn, ngài vẫn nhiệt tình giảng dạy cho Tăng ni sinh trường Trung cấp cũng như tại các khóa An cư kiết hạ, vẫn đều đặn tham gia, chứng minh các cuộc họp của Ban Trị sự Thành hội.
Nhưng việc hóa duyên đã viên mãn, Hòa thượng đã thâu thần thị tịch ngày 09 tháng 3 năm 2009 (tức ngày 13 tháng 02 năm Kỷ Sửu). Trụ thế 91 năm, trải qua 70 mùa An cư kiết hạ.
Cả cuộc đời ngài là một tấm gương sáng tô thắm thêm trang sử vàng của Phật giáo Việt Nam và của Phật giáo Hà Nội về đức hạnh khiêm ưu, tận tụy trong sự nghiệp hoằng dương chánh pháp, phổ độ chúng sinh. Hình bóng Hòa thượng mãi luôn được khắc ghi trong lòng Tăng ni Phật tử Thủ đô.
NAM MÔ TRANG NGHIÊM THÁP, MA HA TỶ KHƯU GIỚI PHÁP HÚY THƯỢNG THANH HẠ CHỈNH, HIỆU PHÚC NGHIÊM, TỰ NHU HÒA GIÁC LINH HÒA THƯỢNG THIỀN TỌA HẠ.
- Văn phòng Thành hội Phật giáo Hà Nội cung cấp.
- Tỳ kheo Đồng Bổn biên tập.
Tin tức khác
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 31 – THÁNG 1 NĂM 2020
- NHÂN VẬT PHẬT GIÁO VIỆT NAM
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 30 – THÁNG 10 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 29 – THÁNG 7 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 28 – THÁNG 4 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 27 – THÁNG 1 NĂM 2019 (PL. 2562)
Bình luận bài viết