HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ GIÁC (1915-2005)
Hòa thượng họ Dương, húy Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, pháp tự Giải Lạc, pháp hiệu Trí Giác, thuộc đời thứ 41 Thiền phái Lâm Tê, dòng kệ Chúc Thánh. Hòa thượng sinh năm Ất Mão (1915), tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Tùng, pháp danh Chương Đạo, thân mẫu là cụ bà Nguyễn thị Phụng, pháp danh Chơn Loan. Hòa thượng là người con thứ năm trong gia đình có sáu anh chị em.
Năm lên 3 tuổi, thân phụ ngài qua đời, thân mẫu tần tảo nuôi con và cho ngài theo học chữ Nho với các cụ Đồ trong làng được 5 năm mới chuyển qua học Việt văn. Với túc duyên sẵn có, nên ngài sớm đã có chí nguyện xuất trần.
Năm 1930, khi vừa tròn 15 tuổi, ngài được thân mẫu cho xuất gia học đạo với Hòa thượng Tăng cang Thích Thiện Quả, trụ trì tổ đình Chúc Thánh, Hội An. Sau một thời gian học Kinh, Luật với Hòa thượng bổn sư, ngài được bổn sư cho vào tham học Phật pháp với Hòa thượng Thích Phổ Trí tại chùa Văn Thánh, Thị Nghè-Sài Gòn. Trong thời gian nầy, ngài đã đóng góp công sức cùng với Hòa thượng Thích Đạo Thanh khai sơn chùa Pháp Hoa-Phú Nhuận và cùng Hòa thượng Thích Trí Nghiêm khai kiến chùa Bửu Đà, Hòa Hưng-Sài Gòn.
Năm 1932, Hòa thượng Thích Đạo Chương khai sơn chùa Kim Quang, thủ đô Nam Vang, Campuchia, ngài được mời qua phụ tá trong công việc hoằng pháp.
Năm 1935, Hòa thượng về lại Sài Gòn thì nhận được tin thân mẫu lâm trọng bịnh. Bấy giờ, các anh chị của ngài đều đã sớm qua đời, Hòa thượng vội vàng về quê thỉnh an và phụng dưỡng, chăm sóc thuốc men cho thân mẫu, nhưng chẳng bao lâu thì thân mẫu ngài qua đời. Sau khi cư tang, thủ hiếu đúng theo truyền thống văn hóa của dân tộc, ngài về lại tổ đình Chúc Thánh tiếp tục tu học với Hòa thượng bổn sư.
Năm 1948, nhận thấy ngài đạo tâm kiên cố, huệ căn khai phát, Hòa thượng bổn sư cho phép thọ Tam đàn Cụ túc giới tại Đại giới đàn Hộ Quốc, tổ đình Báo Quốc-Huế, cùng khóa với ngài có Hòa thượng Thích Quang Thể, nguyên Trưởng Ban Trị sự Thành hội Phật giáo thành phố Đà Nẵng. Sau khi thọ giới về, Hòa thượng được thỉnh cử giữ chức vụ trụ trì chùa Hội Phật học Quảng Nam (nay là chùa Pháp Bảo-Hội An). Trong thời gian nầy, Hòa thượng bổn sư lâm bệnh nặng, mặc dầu công việc Phật sự rất đa đoan, nhưng ngài vẫn thị hầu bổn sư ra Huế chữa bệnh, tự tay chăm sóc tất cả mọi mặt cho đến khi bổn sư lành bệnh.
Năm 1950, Hòa thượng đứng ra thành lập Sơn môn Tăng già Quảng Nam.
Năm 1951, Hòa thượng được cử làm Trưởng đoàn Sơn môn Tăng già Quảng Nam tham dự Đại hội Đại biểu Phật giáo Thống nhất lần thứnhất tại chùa Từ Đàm-Huế, và được bầu làm Ủy viên dự khuyết trong số 51 đại biểu.
Năm 1952, Giáo hội Tăng già Quảng Nam-Đà Nẵng thành lập, Hòa thượng được cử giữ chức vụ Thư ký của Giáo hội.
Năm 1954, Hòa thượng được sơn môn cử làm trụ trì tổ đình Phước Lâm. Trong thời gian nầy, ngài vừa vận động trùng tu tổ đình, vừa tạo điều kiện trợ duyên cho chư Tôn đức trong tông môn được vào theo học tại Phật học đường Ấn Quang, Sài Gòn, như Hòa thượng Thích Như Huệ (hiện là Viện chủ tổ đình Pháp Hoa, Nam Úc), Hòa thượng Thích Chơn Phát (trụ trì chùa Long Tuyền, Hội An), Hòa thượng Thích Như Vạn (trụ trì tổ đình Phước Lâm, Hội An)…
Năm 1955, Hòa thượng vận động trùng tu chùa Nghĩa Trũng, Điện Bàn, Quảng Nam.
Năm 1956, Hòa thượng được cung thỉnh làm Hội trưởng Hội Phật học Quảng Nam. Lúc bấy giờ, Hòa thượng Thích Pháp Nhãn đang khai động Quan Thế Âm thuộc ngọn Kim Sơn, và động Huyền Vi thuộc ngọn Hỏa Sơn, Ngũ Hành Sơn (Quảng Nam, nay thuộc TP Đà Nẵng), nhưng bị chính quyền sở tại làm trở ngại, buộc phải tháo gỡ trong vòng 7 ngày. Nhân danh Giáo hội địa phương, ngài đã đứng ra can thiệp, kết quả là hai hang động đó được hình thành, góp tăng thêm phần cảnh quan cho danh thắng Ngũ Hành như hiện nay.
Năm 1958, Hòa thượng được bầu làm Trị sự trưởng Giáo hội Tăng già Quảng Nam.
Năm 1959, Hòa thượng được Giáo hội Phật giáo Tăng già Trung phần, do Hòa thượng Thích Mật Thể làm Trị sự trưởng, thỉnh cử đảm nhiệm trụ trì tổ đình Tam Thai, Ngũ Hành Sơn. Trong thời gian nầy, ngài đã cùng với Hòa thượng Thích Trí Hữu, Giám đốc Phật học viện Phổ Đà lúc bấy giờ, mở chi nhánh Phật học viện tại chùa Linh Ứng để đào tạo Tăng tài, góp phần vào sự nghiệp chấn hưng Phật giáo Việt Nam. Những Tăng sinh lúc bấy giờ, hiện nay đang làm công tác Phật sự ở trong nước và nước ngoài, như là Hòa thượng Thích Như Tín (trụ trì tổ đình Hưng Long, Đại diện Chi phái Lâm Tế Chúc Thánh tại TP. Hồ Chí Minh), Thượng tọa Thích Hoằng Khai (Quản lý Tu viện Quảng Hương-Già Lam, TP. Hồ Chí Minh), Thượng tọa Thích Thanh Thế (trụ trì chùa Bảo Tịnh, TP. Hồ Chí Minh), Hòa thượng Thích Bảo Lạc (ở Úc), Hòa thượng Thích Thông Đạt (ở Mỹ)...
Năm 1961, ngài cùng với Hòa thượng Thích Tôn Bảo, trụ trì tổ đình Vu Lan, đứng ra thành lập chùa Sư nữ Bảo Quang, Đà Nẵng.
Năm 1963, Phật giáo lâm vào pháp nạn, Hòa thượng cùng với chư Tôn đức trong Giáo hội Tăng già Quảng Nam đồng cam cộng khổ, quyết lòng đấu tranh cho sự trường tồn của Chánh pháp.
Năm 1966, một lần nữa Hòa thượng lãnh đạo Phật giáo đồ Quảng Nam đấu tranh chống hiến chương Vũng Tàu và chính sách kỳ thị tôn giáo của chế độ Sài Gòn.
Năm 1968, Hòa thượng được thỉnh cử giữ chức vụ Chánh Đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tỉnh Quảng Nam.
Năm 1970, Hòa thượng được thỉnh cử làm Phó Chủ đàn Đại giới đàn Vĩnh Gia, chùa Phổ Đà-Đà Nẵng.
Năm 1975, sau khi đất nước thống nhất, các tỉnh Quảng Nam, Quảng Tín và Thị xã Đà Nẵng sáp nhập thành tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng, Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng hình thành, Hòa thượng được thỉnh cử giữ chức vụ Đặc ủy Tăng sự.
Năm 1980, Thượng tọa Thích Như Vạn viên tịch, Hòa thượng được môn phái cung thỉnh kiêm nhiệm trụ trì tổ đình Phước Lâm, Hội An.
Năm 1982, Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng thành lập, Hòa thượng được thỉnh cử giữ chức vụ Trưởng Ban Tăng sự liên tiếp 3 nhiệm kỳ từ năm 1982 đến 1997. Cũng trong năm 1982, ngài được cung thỉnh làm Hòa thượng Đàn đầu truyền giới Sa di tại Giới đàn chùa Pháp Bảo-Hội An.
Năm 1987, tại Đại hội Phật giáo toàn quốc kỳ II Giáo hội Phật giáo Việt Nam, ngài được tấn phong lên hàng giáo phẩm Hòa thượng.
Năm 1992, trong dịp Lễ khánh thành bảo tháp Tổ sư Minh Hải-Pháp Bảo, Hòa thượng được môn phái suy tôn lên ngôi vị Trưởng môn phái Lâm Tế Chúc Thánh cho đến ngày viên tịch.
Năm 1992, trong Đại hội Phật giáo toàn quốc kỳ III Giáo hội Phật giáo Việt Nam, ngài được suy tôn vào thành viên Hội đồng Chứng minh Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Cũng trong năm này, ngài được cung thỉnh làm Hòa thượng Đàn đầu truyền giới Sa di tại Giới đàn tổ đình Phước Lâm-Hội An.
Năm 1996, Hòa thượng được Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng cung thỉnh làm Chánh Chủ đàn Đại giới đàn Phước Huệ, chùa Phổ Đà-Đà Nẵng.
Năm 1997, tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng được tách ra thành 2 đơn vị hành chánh là thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam, Hòa thượng được Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Quảng Nam cung thỉnh làm Chứng minh Ban Trị sự Phật giáo Tỉnh.
Năm 1998, nhận thấy tuổi tác đã cao, sức khỏe suy yếu dần, nên Hòa thượng trở về lại tổ đình Tam Thai và đề cử Đại đức Thích Hạnh Hoa kế vị trụ trì tổ đình Phước Lâm.
Năm 2000, Hòa thượng lâm trọng bệnh và đã giao phó cho đệ tử là Đại đức Thích Hạnh Mãn thay thế ngài điều hành mọi Phật sự tại tổ đình Tam Thai.
Sau khi giao phó tất cả mọi Phật sự cho hàng đệ tử và Tông môn pháp phái, Hòa thượng lui về phương trượng miên mật hành trì lục tự Di Đà. Quang âm thấm thoát, tuế nguyệt thoi đưa, thân tứ đại của ngài càng suy yếu dần. Tuy vậy, vì Tông môn Tổ ấn, ngài vẫn luôn luôn băn khoăn bởi sự xuống cấp trầm trọng của ngôi tổ đình Chúc Thánh, nên ngày môn phái phát nguyện Đại trùng tu lại ngôi tổ đình, Hòa thượng đã không quản bệnh duyên, chấn tích về Chứng minh Lễ đặt đá vào ngày 29 tháng 5 năm Ất Dậu (05.7.2005). Trong dịp này, Hòa thượng gặp gỡ chư Tôn đức trong môn phái và nói rằng: “Có lẽ đây là lần cuối cùng tôi về lại chốn Tổ”.
Như là một lời tiên tri, chưa đầy 3 tháng sau, Hòa thượng đã thuận thế vô thường, an nhiên thâu thần thị tịch, nhẹ nhàng chích lý Tây quy, vào lúc 6 giờ ngày 26 tháng 8 năm Ất Dậu, nhằm ngày 29 tháng 9 năm 2005, tại tổ đình Tam Thai, phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, hưởng thọ 91 xuân thu, 57 hạ lạp.
Với 76 năm xuất gia và hành đạo, bằng tất cả tinh thần “Thượng cầu hạ hóa” của một bậc Trưởng tử Như Lai và tinh thần trách nhiệm thiêng liêng trong cương vị Trưởng một môn phái lớn, ngài đã vận động trùng tu, sáng lập nhiều ngôi chùa tại quê hương đất Quảng, tạo thắng duyên trong việc đào tạo Tăng tài, xây dựng tông môn ngày càng phát triển rộng khắp, từ các tỉnh, thành trong nước đến các nước ngoài, như Campuchia, Úc, Mỹ, Đức... Ngài xứng đáng là bậc Long tượng trong chốn tòng lâm, là lương đống trong Phật pháp và là tấm gương rực sáng cho đàn hậu học noi theo.
NAM MÔ TỰ LÂM TẾ CHÁNH TÔNG TỨ THẬP NHẤT THẾ, PHƯỚC LÂM - TAM THAI TỔ ĐÌNH ĐƯỜNG THƯỢNG, HÚY THƯỢNG NHƯ HẠ NHÀN, TỰ GIẢI LẠC, HIỆU TRÍ GIÁC ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG GIÁC LINH.
- Bản tiểu sử do môn đồ pháp quyến cung soạn năm Ất Dậu, PL 2549
- Đăng trên các trang nhà Phật giáo Quảng Nam Đà Nẵng.
- Tỳ kheo Thích Đồng Bổn biên tập lại.
Tin tức khác
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 31 – THÁNG 1 NĂM 2020
- NHÂN VẬT PHẬT GIÁO VIỆT NAM
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 30 – THÁNG 10 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 29 – THÁNG 7 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 28 – THÁNG 4 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 27 – THÁNG 1 NĂM 2019 (PL. 2562)
Bình luận bài viết