Thông tin

HÒA THƯỢNG THÍCH TRUNG QUÁN (1918-2003)

 

 

Hòa thượng họ Vũ, pháp huý là Thanh Quát, pháp hiệu là Trung Quán, sinh trưởng trong một gia đình thiện lương làm nông. Cụ ông là Vũ Ðình Duật và cụ bà là Nguyễn Thị Nhiên. Ngài ra đời vào ngày 9 tháng 6 năm Mậu Ngọ 1918 tại làng Hạ Kỳ, phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Ðịnh. Gia đình gồm bốn người con, hai trai và hai gái. Ngài là người con trai thứ hai trong gia đình.

Khi lớn lên, ngài thấy rõ cuộc đời khổ nhiều vui ít. Tình cờ ngài xem lịch sử Tổ Huyền Quang, thi đỗ trạng nguyên (đệ nhất giáp tiến sĩ) mà đi tu, ngài cảm thấy tiền tài danh lợi đều hư vọng. Năm 1936, ngài quyết chí xuất gia tu hành, đến lạy Hòa thượng Thích Ðức Nhuận, chùa Quảng Bá, Hà Nội làm nghiệp sư, lúc đó ngài vừa tròn 19 tuổi.

Năm 1937, ngài được nghiệp sư cho thụ giới Sa di tại giới đàn chốn tổ Bồ Đề, do Tổ Tế Xuyên-Thích Doãn Hài làm Đàn đầu truyền giới.

Năm 1938, ngài được thụ Tỷ kheo giới tại chốn tổ Lãng Lăng (chùa Kim Sa) xã Xuân Đài, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Giới đàn này do Hòa thượng Quy Minh, chùa Hà Bắc, làm Đàn đầu truyền giới.

Ngài mồ côi cha từ lúc 6 tuổi. Xuất gia tu học được mười năm thì mẫu thân của ngài qua đời. Sau khi xuất gia, ngài dốc lòng tinh tấn tu hành. Ở với bổn sư của ngài được bảy năm, vì sứ mệnh hoằng dương Phật pháp, ngài đã được Hoà thượng Thích Thanh Tuất cung thỉnh sang Lào vào năm 1959, và ngài đã mang Phật giáo đại thừa truyền bá vào xứ Lào.

Ngài đã thành lập được 10 ngôi chùa tại xứ Lào. Ngôi chùa đầu tiên ngài thành lập là chùa Phật Tích. Tại đây, ngài đã cảm hóa được những chúng sinh ngỗ nghịch để trở về với Phật pháp. Trong cuộc đời hành đạo tại xứ sở triệu voi, ngài đã độ rất nhiều Tăng ni và tín chúng Phật tử ở tại xứ Lào.

Ðến năm 1978, được Hòa thượng Thích Chân Thường bảo lãnh, ngài rời xứ Lào lên đường sang Pháp, để hoằng dương Phật pháp ở phương Tây, lúc đó ngài đã 60 tuổi.

Sang Pháp, những ngày đầu tiên ngài tá túc tại chùa Quan Âm ở vùng ngoại ô thành phố Paris, là trú xứ của Hòa thượng Thích Chân Thường gần một năm. Sau đó, Hòa thượng Thích Tâm Châu thỉnh ngài về chùa Hồng Hiên ở Fréjus (miền Nam nước Pháp) và hoằng hóa tại đây được 2 năm. Sau đó, Cụ Escale và các Phật tử đã quy y với ngài từ bên Lào sang Pháp, xuống Fréjus thỉnh ngài về thành lập và trụ trì chùa Hoa Nghiêm ở ngoại ô thủ đô Paris.

Trên 20 năm sống ở Pháp, ngài ngược xuôi hoằng pháp, không ngại gian lao khốn khó. Bất cứ ở đâu cung thỉnh, ngài đều từ bi quang lâm làm Phật sự. Thời gian này, ngài cũng đã thành lập thêm và làm vị Thầy chứng minh của 6 ngôi chùa ở nước Pháp và nước Bỉ.

Tánh ngài thâm trầm, đơn giản nhưng rất oai nghiêm dõng dạc của một vị thiền sư, khiến ai nấy cũng sanh tâm hoan hỷ khi diện kiến. Ngài cũng là 1 trong 7 vị Thượng tọa đã được Ðại hội Tăng già Việt Nam tại Hải ngoại nhóm họp tại chùa Phật Giáo Việt Nam vùng Thủ đô Washington D.C. vào ngày 6 tháng 5 năm 1979, suy tôn lên ngôi vị Hòa thượng để hướng dẫn tinh thần đồng bào Phật tử tại nước Pháp.

Ngài đã dịch thuật và biên soạn nhiều bộ kinh luận:

1- Kinh Viên Giác.

2- Kinh Nhân Vương Hộ Quốc.

3- Vãng sinh Luận. (luận)

4- Kinh Hiền Ngu.

5- Lịch sử Ðức Phật.

6- Kinh Thiện ác nhân quả.

7- Kinh Dược Sư.

8- Kinh Di Ðà.

9- Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt.

10- Kinh Phân Biệt Thiện Ác Báo Ứng.

11- Kinh Ðại Chính Cú Vương.

12- Kinh Ma Ha Nan Tư Tư.

13- Kinh Cổ Lai Thế Thời.

14- Kinh Đại Thông Phương Quảng.

15- Biện Minh Tu Chứng (luận).

16- Tịnh Tọa Pháp (tu tập).

17- Đại Trí Độ Luận (10 quyển)...

Những bộ kinh sách trên đây do ngài dịch và biên soạn rất công phu, đã được xuất bản nhiều lần tại Lào, Việt Nam cũng như tại Pháp. Nhờ đó, hàng Phật tử có thêm cơ duyên học Phật. Đây là một đóng góp rất lớn lao của Hòa thượng cho lịch sử Phật giáo Việt Nam trong vấn đề phiên dịch, trước tác...

Nhưng vạn vật vô thường, thân tứ đại huyễn hóa cũng không tránh khỏi luật sinh già bệnh chết. Ngài cảm thấy sức yếu dần, đại chúng đưa vào bệnh viện để điều dưỡng. Những ngày gần sắp sửa ra đi, ngài đã đòi về chùa nhưng bác sĩ chưa cho cho ngài xuất viện. Nhưng thọ mạng đã định sẵn và ngài đã xả báo thân tứ đại, trở về với hư vô. Ngài thâu thần viên tịch vào lúc 2 giờ 30 sáng ngày 30 tháng 2 năm Quý Mùi, tức ngày 01.4.2003, trụ thế 86 tuổi và 66 hạ lạp.

Suốt cuộc đời tu hành, Hòa thượng luôn lấy bốn chữ Từ Bi Hỷ Xả làm phương châm cho việc độ sinh, ngài là tàng cây đại thụ cho hàng tứ chúng đệ tử khắp nơi của Phật giáo Việt Nam tại hải ngoại.

 


- Tiểu sử do môn đồ pháp quyến soạn.

- Website www.thuvienhoasen.org, www.quangduc.com

- Tỳ kheo Đồng Bổn biên tập lại.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 13)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 12)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 11)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Thái Giải
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 82
    • Số lượt truy cập : 6949676