Thông tin

HÒA THƯỢNG THÍCH TỪ VÂN (1866-1934)

 

 

Hòa thượng thuộc dòng thiền Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 39, pháp danh Ngộ Đạo, pháp hiệu Từ Vân. Ngài thế danh Đinh Công Thân, sinh năm Bính Dần (1866), tại làng Định Yên, huyện Lấp Vò, tỉnh Long Xuyên (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp). Thân phụ là cụ ông Đinh Công Thành và hiền mẫu là cụ bà Lê Thị Hoài. Gia đình có 7 anh em, ngài thứ tư.

Ngài sinh trong gia đình trung lưu phúc hậu, theo truyền thống đạo Phật. Năm Bính Tuất (1886), khi vừa tròn 21 tuổi, sau khi đi chiêm bái vùng Thất Sơn Châu Đốc, bổng nhiên Bồ đề tâm hoa khai, ngài đến An Phước Tự tại quê nhà cầu xin lão tổ pháp húy Đạt Hóa, hiệu Nguyên Hòa làm bổn sư. Hòa thượng hứa khả cho phép cạo tóc xuất gia và ban pháp danh là Ngộ Đạo, hiệu Từ Vân.

Năm Mậu Tý (1888), ngài thọ giới Sa di tại giới đàn An Phước do Thiền sư Minh Thông, hiệu Hải Huệ đương vi Đường đầu Hòa thượng, Thiền sư Phổ Minh đương vi Yết ma A xà lê, Thiền sư Đạt Hóa đương vi Giáo thọ A xà lê.

Năm Tân Mão (1891), ngài đăng đàn thọ Tỳ kheo, Bồ tát giới tại giới đàn Tiên Thiện - Từ Lâm, nơi tổ đình Phước Hưng, Sa Đéc do Thiền sư Minh Thông, hiệu Hải Huệ đương vi Đường đầu Hòa thượng, Thiền sư Hải Huệ, hiệu Chân Giác đạo nhân (Tổ Mẹ Nội) đương vi Yết ma A xà lê, Thiền sư Như Khả, hiệu Chơn Truyền đương vi Giáo thọ A xà lê. Sau khi thọ giới, ngài vâng lệnh Hòa thượng bổn sư về lo Phật sự ở tổ đình Tân Long, làng Tân Thuận Tây, huyện Cao Lãnh (nay thuộc TP. Cao Lãnh).

Năm Ất Tỵ (1905), Hòa thượng bổn sư viên tịch, trở về tổ đình An Phước lo tang lễ hiếu sự xong, ngài tiếp tục kế nghiệp Phật sự tổ đình Tân Long mà bổn sư giao phó.

Năm Ất Mão (1915), ngài bắt đầu mở trường Gia giáo dạy Phật học và tuyển chọn người chuyên khắc ván in để khắc mộc bản các bộ Kinh, Luật...

Năm Kỷ Mùi (1919), Đại giới đàn Minh Phước tổ chức tại tổ đình Phước Hưng, Sa Đéc. Ngài được cung thỉnh đương vi Đường đầu Hòa thượng, Hòa thượng Bửu Phước, khai sơn Phước Ân Tự đương vi Tuyên luật sư Yết ma A xà lê, Hòa thượng Vạn Hiển, trụ trì Phước Hưng đương vi Giáo thọ A xà lê.

Năm Tân Dậu (1921), ngài tiếp tục xây thêm Tăng xá, tiện nghi phòng ốc để tiếp Tăng chúng tứ phương tụ hội học tu. Trong sự nghiệp giáo dục đào tạo tăng tài của ngài, xuất sắc nhất là ngài Huệ Quang đắc pháp và sau này được cung thỉnh lên ngôi Hòa thượng Thượng thủ Giáo hội Tăng già Nam Việt.

Năm Giáp Tý (1924), ngài sang Ấn Độ chiêm bái Phật tích và các nước: Trung Quốc, Thái Lan, Miến Điện, Lào, Campuchia để nghiên cứu tình hình chấn hưng Phật giáo thế giới trong khu vực.

Năm Bính Dần (1926), Đại giới đàn Nguyên Hòa tổ chức tại bổn tự Tân Long, ngài đương vi Đường đầu Hòa thượng. Trong số giới tử của đàn giới này có ngài Thành Đạo đắc giới tại đây, sau này là Trị Sự trưởng Giáo hội Lục Hòa Tăng.

Năm Đinh Mão (1927), Đại giới đàn Minh Phước tồ chức tại tổ đình Phước Hưng, Sa Đéc, ngài được cung thỉnh đương vi Đường đầu Hòa thượng, Hòa thượng Bửu Phước, đương vi Yết ma A xà lê, Hòa thượng Vạn Hiển, đương vi Giáo thọ A xà lê. Sau đó, ngài sang Lào dự Đại hội Phật giáo khu vực.

Năm Canh Ngọ (1930), Đại giới đàn Nguyên Hòa tổ chức tại bổn tự Tân Long, ngài đương vi Đường đầu Hòa thượng, ngài Bửu Phước đương vi Yết ma A xà lê, ngài Vạn Hiển đương vi Giáo thọ A xà lê.

Duyên Ta bà quả mãn, thuận thế vô thường, sinh diệt quy luật, ngài an nhiên tọa hóa (ngồi mà viên tịch) vào ngày 25 tháng 5 năm Giáp Tuất (06.6.1934). Ngài trụ thế 68 Xuân, pháp lạp 40 Hạ, trụ trì 43 Đông.

Lúc sinh thời, ngài đào tạo chúng đệ tử học điêu khắc để chế tác mộc bản các Kinh, Luật, Luận hiện đang tàng bản ở tổ đình Tân Long:

- Sa di Luật giải

- Trường hàng Luật

- Quy Sơn cảnh sách

- Kim Cang Kinh

- Quy Nguyên trực chỉ

- Hứa sử truyện

Ngoài ra, ngài đã phỏng dịch, diễn nôm các bài Sám:

- Khuyến Tu Tịnh Độ

- Sám Từ Vân...

Cuộc đời công hạnh hóa đạo của ngài rất bình dị, chân tu thật học, nghiêm trì giới luật, là một trong những vị cao tăng tạo tiền đề cho cuộc chấn hưng Phật giáo Nam bộ.

Chúng đệ tử xuất gia với ngài như:

 - Tịnh Đắc, Tịnh Nhãn, Tịnh Toàn,Tịnh Trí, Tịnh Thắng, Tịnh Tu, Tịnh Tư, Tịnh Kiên, Tịnh Nghiêm (Khai sơn chùa Thành Hoa, huyện Chợ Mới, An giang, tục gọi là Đạo Nằm), Tịnh Lý, Tịnh Huệ, Pháp Lý, Pháp Tư...

 


- Tỳ kheo Thích Vân Phong, môn nhơn chùa Phước Hưng- Sa Đéc biên soạn

- Tỳ kheo Thích Đồng Bổn biên tập.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 13)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 12)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 11)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Thái Giải
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 121
    • Số lượt truy cập : 6949783