KHÔ MỘC Ỷ HÀN NHAM (CÂY KHÔ TRÊN NÚI TUYẾT)
PHAN CÁT TƯỜNG
Thiền, đôi khi bị hiểu lầm là sự đoạn tuyệt với thế gian của những con người quyết tìm sự giải thoát ở một chân trời mới.
Có một câu chuyện thiền rất đáng để ta suy gẫm...
Sau ba năm cúng dường chu tất cho một vị thiền sư tu hành khá nghiêm túc, bà cụ đã ngộ đạo căn dặn con gái một công việc bí mật sau khi đem mâm cơm trưa vào thiền thất. Cô con gái y lời, sau khi đặt mâm cơm lên bàn, bèn ôm chầm lấy vị thầy khả kính và hô to: “Nói, nói...”. Thiền sư liền ứng khẩu đọc: “Khô mọc ỷ hàn nham, tam đông vô noản khí” (Cây khô tựa núi tuyết, ba năm không có sinh khí).
Cô gái về nhà thuật lại câu chuyện cho mẹ nghe. Bà tỏ vẻ tức giận: “Không ngờ, ba năm nay ta chỉ cúng dường cho một xác chết!”.
Nghe được lời chê trách của cụ già, vị thiền sư cảm thấy xấu hổ vì tu hành chưa xứng đáng với sự cúng dường của tín chủ.
Vị thầy quyết tâm hạ thủ công phu thêm nữa.
Sau khi nhập thất ba năm, kịch bản trước kia lại diễn ra lần nữa. Lần này, sau khi cô gái ôm chặt vị thiền sư và hô to: “Nói, nói...” thì vị thầy chỉ cười ha hả rồi nói khẽ bên tai cô gái: “Trời biết, đất biết, ta biết, ngươi biết nhưng đừng nói cho bà già kia biết nhé!”.
Cô gái về nhà thuật lại toàn bộ câu chuyện cho mẹ nghe, cụ già tỏ vẻ đắc ý, nói: “Chẳng bỏ công ta nhịn miệng cúng dường bấy lâu”!
Trong câu chuyện trên, lần thứ nhất trong vòng tay cô gái, vị thiền sư còn thấy cây khô trên núi tuyết trải qua ba năm vẫn không chút sinh khí. Đó là một sự nhận thức còn kẹt vào “ngã” và “pháp”, ví như một thân cây khô đét, trơ trụi nhờ rễ nó chỉ bám bên ngoài vách đá.
Tuy nhiên, dưới con mắt chứng ngộ của cụ già kia thì đó chỉ là nhận thức phàm phu, theo kiểu bờ này là sinh tử, phải qua bến kia mới có Niết Bàn. Bà đã chê trách nhãn quan nhị nguyên của vị Thiền sư chưa triệt ngộ!
Lần thứ hai, “Trời biết, đất biết, ta biết, ngươi biết, nhưng đừng để bà già kia biết”!... Thật tuyệt vời. Đó là câu nói chỉ xảy ra ở hai hạng người, hoặc phàm phu hoặc thánh trí.
Lần này thì không nghi ngờ chi nữa, vị thầy đã nói được tư tưởng hai bờ sinh tử chỉ là “một”, và “một” đó không phân biệt đạo hay đời, như cây khô kia nếu nó nằm ngoài vách đá thì dù bao nhiêu năm vẫn không thể lấy được chút sinh khí của trời rộng đất dày. Rễ nó cần phải đâm thẳng vào lòng đất, đón lấy sự sống tuôn chảy từ lòng đất để có thể hòa nhịp với gió, với mây, với nắng mà tạo nên sự sống muôn trùng.
Đó là sự nhận thức của Vô Sư trí, hay đúng hơn là cái thấy biết xuất phát từ chơn tâm rỗng không, tịch lặng. Từ chỗ rỗng không, tịch lặng thì sự nhận thức trở thành “chiếu kiến” như trong kinh Bát Nhã đã nói “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Chỉ có chiếu kiến thì ngũ uẩn mới trở về cái Không vốn dĩ, còn nhận thức thì cái Có vẫn còn nguyên vẹn...
Vì lẽ đó mà kinh Dịch, quẻ số 28 (Trạch Phong Đại Quá) đã đưa ra một hình ảnh rất độc đáo qua thoán từ của hào lục nhị: “Khô dương sinh đề. Lão phu đắc kỳ nữ thê. Vô bất lợi”. (枯 楊 生梯. 老 夫 得 其女 妻. 無 不 利 - Cây khô mọc rễ như lão già lấy được vợ trẻ. Được lắm!).
Sở dĩ “Cây khô mọc rễ” là vì hào số hai đáng lẽ phải là hào âm, nhưng nó lại dương (quẻ Trạch Phong Đại Quá có hào số 2 dương). Hào dương ở vị trí âm cũng giống như rễ cây khô đâm thẳng vào lòng đất. Cả hai đều mang ý nghĩa một cuộc hóa thân vô ngại giữa hai bờ sinh tử. Thiện ác hội ngộ, âm dương giao hòa, sanh tử nhất như...
Chỉ khi đó, thần chú Bát Nhã: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha” (Vượt qua, vượt qua. Vượt qua bờ bên kia. Vượt qua hoàn toàn. Tuệ giác thành tựu) mới thật sự trở về cái trống rỗng, vô ngôn vốn dĩ của nó, vì hành giả không cần phải nhảy một cú chí mạng để vượt qua bờ bên kia, mà đôi khi cú nhảy lầm lẫn đó chỉ tạo thêm sanh tử luân hồi!
Và ở đây, chỉ cần ở đây, ngay bây giờ cái rễ cây khô khốc của hành giả hãy đâm một cú quyết liệt vào mảnh đất tâm để cho trời đất giao hòa, âm dương hội ngộ cho cây khô sẽ kịp trổ hoa khi mùa Xuân về, dù cành có khẳng khiu, thân có gầy còm giữa giá buốt...
Đó là chỗ mà Tế Điên hòa thượng cầm miếng thịt chó đi ung dung giữa chợ đời, chỗ mà thiền sư Lai Quả lúc nào cũng tóc tai bù xù, là chỗ mà thánh Francis một mực làm gã hành khất sau khi thể nhập với Chúa.
Và như thế thì chuyện tu hành sẽ trở thành một cuộc chơi lớn của những tâm hồn nghệ sĩ. Điều cốt yếu là người nghệ sĩ đó phải dám bước qua lằn ranh định mệnh của mình để tự biến mất trong cái “không phải mình” rồi lại tìm thấy chính mình giữa cái bao la trời đất.
Và câu chuyện “khô mộc ỷ hàn nham” một lần nữa lại là tiếng chuông cảnh tỉnh cho những hành giả đang khổ công đi tìm chân lý ở một biên cương vô định mà quên rằng nơi mình đang đứng đây chân lý cũng đang hiện diện trong sự lãng quên của chính mình.
Bình luận bài viết