MINH VƯƠNG - BỒ TÁT CỦA DÂN TỘC VÀ ĐẠO PHÁP
DƯƠNG KINH THÀNH*
Chúa Nguyễn Phúc Chu (1675 – 1725) sau này còn được gọi là Bồ Tát – Minh Vương (từ đây xin đọc là Minh Vương) do chính tài đức và quyết đoán sâu sắc không chỉ riêng lãnh vực các sách lược kinh bang tế thế mà còn trong việc tôn trọng và giúp ích cho Phật giáo rất lớn.
Có thể nói, Minh Vương là một vị chúa hiền và có tài. Khi mới lên ngôi, ông quan tâm chiêu hiền đãi sĩ, cầu lời nói thẳng, nạp lời can gián, bỏ xa hoa, bớt chi phí, nhẹ thuế má giao dịch, bớt hình ngục. Ông còn cho xây dựng một loạt chùa miếu, mở hội lớn ở chùa Thiên Mụ, chùa Mỹ Am. Bản thân chúa cũng ăn chay ở vườn Côn Gia một tháng trời, phát tiền gạo cho người nghèo. Bờ cõi yên ổn do chiến tranh Trịnh – Nguyễn đã tạm dừng 30 năm (Theo wikipedia tiếng Việt; Hải ngoại kỷ sự -Thích Đại Sán , Viện Đại học Huế 1963; Đại Nam nhất thống chí).
Phần lớn trong sự nghiệp lừng lẫy của Minh Vương là mở rộng bờ cõi về phương Nam, từ dải đất Nam Trung Bộ đến tận cuối trời Tổ quốc Hà Tiên - Cà Mau. Tên tuổi ông luôn được nhắc đến với sự kính trọng và nể phục trong hành trình mở mang bờ cõi Đại Việt. Những thành tựu đáng kể nhất có thể một vài dẫn dụ như:
+ Đặt phủ Bình Thuận năm Đinh Sửu (1697) gồm từ Phan Rang, Phan Rí trở lên phía Tây.
+ Đặt phủ Gia Định.
+ Chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng nai làm huyện Phúc Long, dựng dinh Trấn Biên (Biên Hòa).
+ Lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, lập xã Minh Hương.
+ Năm Canh Thìn (1700), có thêm đất vùng Sông Bé, La Ngà, Tánh Linh.
+ Năm Mậu Tý (1708), có thêm đất Hà Tiên do Mạc Cửu dâng, được Minh Vương nhận và đặt thành trấn Hà Tiên ,nhưng để thể hiện sự ân cần trọng dụng nhân tài trong sách lược đối với người Minh hương, ông đã khôn khéo giao xứ Hà Tiên cho Mạc Cửu trấn giữ
Về những đóng góp cho Phật giáo Việt Nam xứ Đàng Trong của Minh Vương, đó là những thành tựu xuất phát từ tâm khởi của một người Phật tử rất đặc biệt này. Minh Vương có pháp hiệu là Thiên Túng Đạo Nhân hay Hưng Long Cư Sĩ. Có thể nhìn nhận rằng từ bước khởi duyên được cho là nền móng ban đầu của Minh Vương cho đến hơn 200 năm sau của vương triều nhà Nguyễn, Phật giáo đã thật sự trở lại vị trí ban đầu của mình và nhanh chóng được trọng thị và phát triển từ nhiều phía.
Dựa trên nhận xét khách quan, chúng ta thấy rằng Phật giáo xứ Đàng Trong tuy rất được coi trọng trong thời các chúa Nguyễn, nhưng do thời gian trước đó, tự thân không phát triển được nên việc đào tạo tăng tài cũng chững lại. Vì thế, khi được hồi sinh và phát triển thì lâm vào thế hụt hẩng, tăng tài khiếm khuyết, không thể đảm đương được các vị trí lãnh đạo cũng như hoằng hóa. Minh Vương ngay từ đầu đã thấy ra được những điều đó nên bằng khả năng và quyền hạn của mình, ông không ngại ngần hai lần viết thư cung mời Hòa thượng Thạch Liêm (tức HT Thích Đại Sán). Ngoài việc giúp ý kiến cho chúa ở lãnh vực trị nước, hòa thượng còn giúp đỡ rất nhiều trong việc trùng hưng lại đạo Phật.
Hải ngoại kỷ sự, quyển 2,có chép rằng: “… Ta bèn đem việc chính trị ra bàn luận mấy ngày nay, chép ra từng điều một, làm thành bản điều trần “Lập Quốc Chính ước”gồm 18 điều, đều là những chuyện thương lín , yêu dân, thông thương lợi quốc, kỷ cương pháp độ, chép từng chi tiết rõ ràng. Vương đọc xong mừng rỡ, bảo Nội Quan Chưởng Sự rằng “Pháp độ, dân tình nước ta đều chưa được đứng đắn, nay nhờ lão Hòa thượng đem phép lễ Trung Quốc chỉ dạy, liệt kê 18 điều, nên khắc yết lên cửa phủ, hiểu dụ quan dân điều biết, và khắc 24 thẻ bài, chia loại rõ ràng. Hễ ai làm trái điều lệ, phạm phép, cho kẻ bị thiệt hại cầm thẻ bài đến kêu. Bất kể là quân dân, hoàng thân quốc thích đều theo pháp luật mà trị tội. Vĩnh viễn lấy đó làm quốc chánh vậy…”.
Về lãnh vực hỗ trợ Phật giáo cũng được được chính hòa thượng kể lại trong Hải ngoại kỷ sự - tr.50:
“Lão Tăng từ phương xa đến, được Quốc vương cung kính, thân như cốt nhục. Vả lại thần dân trong nước thảy đều quy y Tam Bảo, thực là một quốc gia muốn làm lành, rất hiếm có…”.
Minh Vương đã cho mở trai đàn, thỉnh Hòa thượng Đại Sán thuyết pháp, đặc biệt là mở đại lễ truyền thụ giới Sa di quy mô lần đầu tiên. Ngày lễ Phật Đản năm đó (mùng 8 tháng 4 â.l), Minh Vương lại cho khai đàn ở nội viện để Quốc mẫu, công chúa, hoàng thân, quốc thích được thọ Bồ tát giới. Kế tiếp theo đó, ngày mồng 9 tháng tư, hòa thượng xuất tăng nhân hai hàng, thi lãnh hơn 1.400 giới đệ tử, mặc cà sa, cầm bình bát, cử hành lễ cổ Phật khất thực và tạ ơn Quốc chúa đã thành tựu công đức, sau đó Minh Vương cho mời tất cả các tăng nhân vào thiết cúng trai tăng, đãi trà nhóm tân giới đệ tử, ban thêm 300 quan tiền, 100 thạch gạo, sai lính gánh về chùa Thiền Lâm, lại đem tất cả giới điệp có đóng ấn triện của Minh Vương ban cấp cho tăng nhân và những người đã tham gia đại lễ trai đàn.
Ngày 14 tháng 4, Minh Vương cho mời 10 vị đệ tử của Hòa thượng Thích Đại Sán để mở một lễ xưng tụng Đại Bi Tâm đà la ni. Làm việc này vì Minh Vương nhớ lời hòa thượng đã chỉ bào những việc cần nên làm: “Việc trai giới chẳng phải chỉ để giữ cho sạch miệng, sạch mình, sạch tư tưởng mà thôi. Việc trai giới của nhà vua, cần phải đem việc quốc gia trên giới thanh lý chỉnh tề, không một người nào chưa được yên sở, không một việc nào chưa được thỏa đáng, như thế mới gọi là viên mãn. Nay trước hết nên thanh lý oan ngục, tha tù bị giam cầm, chẩn cấp kẻ nghèo thiếu, khởi dụng kẻ yêm trệ, bãi bỏ điều cấm nghiêm khắc, thương xót kẻ buôn bán, thi ân cho thợ thầy. Nói tóm lại, nên đem tất cả các việc giúp người lợi vật, châm chước cử hành. Đến như nghi lễ đàn trường, tăng chúng y bát, vật dụng hư hao… sẽ kê đơn chế biện …(Hải ngoại kỷ sự -sđd-tr.97).
Cũng theo gợi ý của Hòa thượng Thích Đại Sán, Minh Vương còn cho trùng tu nhiều chùa, đúc nhiều đại hồng chung tiến cúng. Đáng kể nhất là trùng tu chùa Thiền Lâm, gần phủ Dương Xuân là cung điện mùa đông của Minh Vương.
Năm Canh Dần (1710), Minh Vương cho khởi công đúc đại hồng chung chùa Thiên Mụ với bài minh khắc nói lên tâm nguyện của mình: “Chúa Đại Việt Nguyễn Phúc Chu, nối dòng động thượng chánh tông đời thứ 30, pháp danh Hưng Long đúc chuông lớn này nặng 3.285 cân, để vào chùa Thiên Mụ, cúng Tam Bảo lâu dài. Nguyện cấu gió hòa mưa thuận, nước thịnh dân an, chúng sanh trong pháp giới đều được vẹn toàn trí tuệ”.
Chùa Thiên Mụ là nơi gắn kết nhiều kỷ niệm trong mối thâm giao giữa Minh Vương và Hòa thượng Thích Đại Sán. Đó là mối giao duyên giữa thầy và trò, giữa hai người bạn và giữa hai giềng mối văn hóa Phật giáo Đại thừa của hai nước Việt - Trung mà không bị ràng buộc hoặc ảnh hưởng bởi tình hình chính trị hai nước lúc bấy giờ. Vì vậy, chùa Thiên Mụ còn lưu lại nhiều chứng tích văn bia do Minh Vương viết để ghi nhớ về mối thâm giao đặc biệt này. Trong ý niệm về tình thầy – trò, Minh Vương đã có những dòng rất cảm động: “... Thầy ta đã đi rồi, ta cứ hoài thương nhớ vị cao tăng, đã từng chống gậy vượt qua núi non, quan ải, dùng thuyền chở đạo, vượt biển, băng suối đi đến trời Nam, đem câu kinh kệ tuyệt diệu để ca tụng đạo mầu…”.
Minh Vương trong vai trò của mình đã biến cái không thể thành có thể, những điều mà trước đó, những vị chúa Nguyễn khác đã không thực hiện được, đem lợi ích, vinh quang về cho Đại Việt và tạo nên nền tảng rất tốt đẹp cho Phật giáo Việt Nam từ đây có cơ duyên thuận lợi, làm sống lại truyền thống hai ngàn năm rực rỡ của mình. Cũng chính nhờ đức độ và tài ba của Minh Vương đã đưa Hòa thượng Thích Đại Sán đi vào một phần trang sử của Phật giáo Việt Nam. Điều này, người viết rất đồng tình với nhận định của nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Vinh: “Sở dĩ H.T Thích Đại Sán nổi tiếng trong giới Phật giáo, được tôn sư cho tới bây giờ và được phụng thờ ở chùa Thiên Mụ chẳng phải hoàn toàn do tài đức hoằng pháp của sư đối với Đại Việt ta, nhưng vì sư có một người đệ tử tài ba, lỗi lạc và danh tiếng. Đó là Đại Việt Quốc chủ chúa Nguyễn Phúc Chu. Chúa Nguyễn Phúc Chu là người có công lớn trong công việc đại trùng tu chùa Thiên Mụ dựng bia, đúc chuông lớn, còn lưu truyền cho đến ngày nay”.
Sự nghiệp giữ an cõi bờ và hoằng hóa Phật pháp của Minh Vương Nguyễn Phúc Chu, đáng là bài học quý giá cho thế hệ ngàn sau noi theo. Trong một bối cảnh đất nước trong thì Nam - Bắc phân tranh, ngoài thì lăm le giặc dữ, Minh Vương vận dụng mọi tình huống trước mắt để biến nó thành những điều thuận lợi và biết giữ nó bền lâu. Một người sống nghĩa tình hết mực, chung thủy với sở nguyện và bền bỉ trau dồi đạo đức bản thân, người đó chắc chắn là một nhân tố tốt lành cho xã hội. Chúa Minh Vương Nguyễn Phúc Chu là mẫu hình tiêu biểu đó; với Phật giáo, ông còn là một vị Bồ Tát đúng nghĩa, góp phần đưa Phật giáo Việt Nam qua một trang sử mới, trang sử tiếp cận thời đại tiên tiến ngày nay.
Bình luận bài viết