NGHĨ VỀ THÂN GIÁO
NGUYÊN CẨN
...chỉ có một con đường đưa đến sự hợp nhất giữa
tư duy và hành động, đó là “lời nói phải đi đôi với
việc làm.
Ngày nào người lớn thôi đánh nhau?
Vào tháng 6/2025, trả lời chất vấn trước Quốc hội về vấn đề bạo lực học đường, Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn đã khẳng khái: “Nói một ngày nào đó trong trường học không còn bạo lực thì tôi có thể nói được. Đó là ngày người lớn không đánh nhau nữa, ngày đấy trẻ con sẽ chỉ nhìn nhau bằng ánh mắt yêu thương thuần túy mà thôi”. Bộ trưởng nói và cho rằng điều này khó, chúng ta phải đối mặt với hiện thực. Vị lãnh đạo ngành Giáo dục viện dẫn thống kê điều tra cho thấy có đến 70% các học sinh có hành vi bạo lực với người khác đều có hoàn cảnh gia đình đặc biệt, hoặc bố mẹ ly hôn, hoặc chứng kiến bạo lực gia đình, hoặc bản thân bị bạo lực gia đình. Điều này, ảnh hưởng đến đời sống tâm lý, thái độ ứng xử, quan điểm của các em.
Vì tôi còn ăn kẹo
Chúng ta nhớ một câu chuyện khác. Có bà mẹ nhờ Gandhi - một người được tôn vinh như “Thánh”, lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Ấn Độ, khuyên bảo đứa con mình thôi ăn kẹo, nhưng ông lại khất đến hai tuần sau mời bà quay trở lại.
Đúng hẹn, khi bà đưa con đến, ông đã ân cần khuyên cháu đừng ăn kẹo nữa vì sẽ làm hư răng. Trả lời thắc mắc vì sao không khuyên ngay hai tuần trước đó, ông nhẹ nhàng trả lời: “Vì hai tuần trước, tôi vẫn còn ăn kẹo!”.
Ngày nào người lớn còn nói dối?
GS. TS. Nguyễn Ngọc Phú, Phó Chủ nhiệm kiêm Tổng Thư ký Hội Khoa học Tâm lý - Giáo dục Việt Nam, có lần cho biết: “Rõ ràng học sinh nói dối ngày càng nhiều so với trước đây. Bản thân trẻ em là tấm gương phản ánh xã hội. Nếu ở trong môi trường mà hàng ngày các em thấy cha mẹ nói dối, thầy cô nói dối thì trẻ em tự nhiên mà nhiễm thói nói dối...”. Nhưng ông nói rằng người lớn nói dối vì cơ chế trói buộc? Điều đó hợp lý không? Hay là do cả xã hội dung túng thói dối trá từ lời ăn tiếng nói cho đến hành động thực tế? Từ việc nhỏ là báo cáo việc làm hàng ngày cho đến những bản tổng kết tô hồng, những dự án với số liệu “vẽ”, kê khống lên để ăn chặn, ăn bớt. Từ lời nói đến hành động, người lớn đều đang có những tấm gương “phản diện” khi mà hàng loạt chuyện lừa đảo, sản xuất hàng gian hàng giả tràn ngập thị trường đang bị phanh phui với tốc độ đáng ngại!
Một cách dễ hiểu hơn, một người cha không thể dạy con mình lòng hiếu thảo, nếu như nó chứng kiến thái độ hỗn xược cuả ông ta với bà nội nó. Một ông giáo sư khó rao giảng đạo đức nếu bản thân ông là một kẻ dối trá, thiếu liêm chính trong đời sống. Nói như nhà báo Hữu Thọ: “Không thể giáo dục lũ trẻ nếu không diệt được tệ nạn tham nhũng”. Vì lúc ấy những người “lớn” không còn là những kẻ đáng kính nữa! Còn nếu nói về bậc chính nhân, hay người quân tử, như Khổng Tử từng định nghĩa, là người “Tâm tính thanh minh... dốc lòng làm việc nghĩa, không tính đến nhỏ nhen danh lợi. Cái bụng người quân tử tự nhiên thành thực, hòa với mọi người nhưng không về hùa với mọi người. Lúc khốn cùng thì cứ lấy nghĩa mệnh mà tự yên... Người lãnh đạo phải là một tấm gương về đạo đức, lời nói và việc làm phải đi đôi, muốn vậy phải tu dưỡng bản thân theo trình tự tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” (Trần Trọng Kim - Nho giáo).
Bác Hồ từng nhấn mạnh: “Chúng ta làm cách mạng nhằm mục đích cải tạo thế giới, cải tạo xã hội. Muốn cải tạo thế giới và cải tạo xã hội thì trước hết phải tự cải tạo bản thân chúng ta” (Diễn văn đọc tại Trường Nguyễn Ái Quốc, 1957). Cải tạo để làm gì? Bác vạch rõ: “Ham làm những việc ích quốc lợi dân. Không ham địa vị và công danh phú quý. Đem lòng chí công vô tư mà đối với người với việc”. Nói cách khác, người lãnh đạo, theo Hồ Chủ tịch phải gồm 5 điều “Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm”.
Thân giáo là gì?
Thân giáo (tiếng Anh có thể tạm dịch là “teaching by example” hoặc “leading by example”) là phương pháp giáo dục mà người thầy, người lãnh đạo, hay cha mẹ dùng chính hành động, thái độ, lối sống, đạo đức và cách ứng xử của mình để làm gương, để truyền đạt bài học cho người khác. Nói một cách đơn giản, thân giáo là “dạy bằng việc làm, không chỉ bằng lời nói”. Khi một người sống và hành động một cách chuẩn mực, chính trực, kiên trì, tử tế, thì những phẩm chất đó sẽ tự động ảnh hưởng và truyền cảm hứng cho những người xung quanh, đặc biệt là học trò, con cái, hoặc cấp dưới.
Chúng tôi chợt nhớ khi còn học ở Đại học Sư phạm Sài Gòn, có lần thầy Khoa trưởng nói: “Nơi đây các anh chị nhớ là trường sư phạm. Một anh bác sĩ, kỹ sư đi với một cô gái làng chơi thì có thể bị đánh giá cá nhân anh ta có lối sống sa ngã, nhưng một ông thầy mà đi với cô gái ấy thì đó là sự suy đồi của cả nền giáo dục. Anh kỹ sư cẩu thả có thể làm hỏng một hay vài cái máy, ông bác sĩ thiếu y đức hay kiến thức có thể gây nguy hiểm tính mạng một vài bệnh nhân, nhưng một giáo sư mà có lỗ hổng đạo đức hay tri thức thì làm hỏng cả một thế hệ”.
Cha mẹ sống chuẩn mực thì con cái cũng nền nếp, tử tế. Giáo viên luôn chuẩn bị bài giảng kỹ lưỡng, đúng giờ và nhiệt tâm thì học sinh sẽ học tập chăm chỉ, nghiêm túc hơn.
Một người lãnh đạo luôn làm việc cần mẫn, công bằng và tôn trọng mọi người thì nhân viên sẽ noi theo.
Chúng ta nhớ thân giáo có tính thuyết phục cao. Hành động có sức mạnh hơn lời nói. Khi người dạy thực hành những điều mình nói, họ sẽ tạo được niềm tin và sự tôn trọng từ người học. Gần đây, khi hàn huyên thân tình, tôi có bày tỏ băn khoăn là làm sao để Phật giáo đến gần hơn với tuổi trẻ. Một người bạn nói thẳng: “Các thầy phải đề cao thân giáo, đừng để quần chúng đánh mất tín tâm vì lối sống hay sinh hoạt của mình”.
Thân giáo tạo ra những giá trị bền vững, thấm nhuần vào tâm thức của con trẻ một cách tự nhiên và sâu sắc, góp phần hình thành đạo đức, lối sống và nhân cách tốt đẹp cho chúng. Hãy nhớ những bài Công dân giáo dục thực hành lúc trước, khi thấy đám ma đi ngang, phải đứng lại, ngả mũ chào; khi đang đi ngoài đường, nghe quốc ca, dừng lại đứng nghiêm. Lên xe bus, thấy người già phải nhường ghế; băng qua đường, thấy em nhỏ hay người tàn tật, phải dắt họ qua... Những chuyện nhỏ nhưng làm nên nhân cách lớn.
Một tập thể, một cộng đồng, một gia đình có những cá nhân thực hành thân giáo sẽ tạo ra một môi trường lành mạnh, khuyến khích sự phát triển chung.
Bắt đầu từ đâu?
Từ những chuyện nhỏ như vừa nêu trên. Nhận biết điểm mạnh, điểm yếu, thói quen tốt và xấu của mình. Xác định những giá trị cốt lõi, đạo đức mà mình muốn theo đuổi và kiên trì thực hiện.
Phải tập cho trẻ rèn luyện tính kỷ luật trong mọi việc, từ những hành động nhỏ nhất như đúng giờ, giữ lời hứa, đến những việc lớn hơn như hoàn thành công việc được giao. Luôn trau dồi kiến thức, kỹ năng để trở thành người có tri thức, tư duy sâu rộng. Người lớn trong gia đình cũng phải nêu gương. Kể cả khẩu giáo, người lớn luôn nói sự thật, hành động minh bạch, tài chính không gian dối.
Trong trường hay ở nhà, tăng cường sự tương trợ, bao dung, biết tha thứ, chia sẻ, biết lắng nghe, sẵn lòng trao đổi ý kiến với người khác, dù là các cháu nhỏ. Lưu ý là phải tôn trọng bản thân và tôn trọng người khác, không phân biệt đối xử. Cuối cùng là cân bằng cuộc sống và công việc, dành thời gian cho phục hồi sức khỏe: Một cơ thể khỏe mạnh và tinh thần minh mẫn là nền tảng để bạn có thể thực hành thân giáo một cách hiệu quả.
Một điều cần làm là tự quan sát và phản tỉnh (self-reflection). Thường xuyên cuối ngày tập ngồi yên hay ngồi thiền, nhớ hay nhìn lại hành vi, lời nói, suy nghĩ của mình trong ngày để xem chúng có phù hợp với những phẩm chất hay giá trị mình muốn truyền tải hay không và mang tâm thế sẵn sàng nhận lỗi và sửa chữa khi cần thiết.
Thân giáo là một hành trình dài và liên tục, không phải là đích đến. Bằng cách không ngừng rèn luyện và hoàn thiện bản thân, những người lớn như cha mẹ, thầy cô bạn sẽ trở thành những tấm gương sống có giá trị, lan tỏa những điều tốt đẹp đến gia đình, học đường và cả xã hội.
Những tấm gương thân giáo trong lịch sử
Trong Phật giáo, Đức Phật được coi là tấm gương vĩ đại nhất về thân giáo. Khi Ngài sống, trọn vẹn theo những giáo lý mà Ngài truyền dạy. Cuộc đời Đức Phật là một bài kinh sống động khi người từ bỏ vương quyền, cuộc sống xa hoa, vợ con để tìm cầu chân lý giải thoát. Hành động này, không phải là lời nói suông mà là sự hy sinh tột cùng cho lý tưởng giác ngộ, để lại bài học về sự buông bỏ và tinh thần vô ngã. Sau đó là 6 năm khổ hạnh, dù cuối cùng nhận ra đó không phải con đường đúng đắn, nhưng sự kiên trì và nỗ lực phi thường của Ngài đã thể hiện ý chí mãnh liệt trong việc tìm kiếm sự thật.Việc người tự mình chứng ngộ dưới cội Bồ Đề, không thông qua bất kỳ giáo chủ hay đấng thần linh nào, đã khẳng định tinh thần tự lực, tự chủ và khả năng giác ngộ của mỗi con người. Sau khi giác ngộ, người đã đi khắp nơi để truyền bá Giáo pháp, không nề hà gian khổ, từ bỏ cuộc sống an nhàn. Sự tận tụy và lòng từ bi của Ngài trong việc khai sáng cho tất cả mọi tầng lớp xã hội, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, đã là bài học về lòng từ bi vô lượng.
Đức Phật thường nhấn mạnh rằng hành động quan trọng hơn lời nói. Người dạy: “Trước hết tự đặt mình/ Vào những gì thích đáng/ Sau mới giáo hóa người/ Người trí khỏi bị nhiễm” (Pháp Cú 158) hay “Hãy tự làm cho mình/ Như điều mình dạy người/ Khéo tự điều, điều người/ Khó thay, tự điều phục” (Pháp Cú 159).
Tấm gương Gandhi
Gandhi từ bỏ mọi tiện nghi vật chất, mặc trang phục đơn giản bằng vải khadi tự dệt (một loại vải bông thô), tượng trưng cho sự tự lực và chống lại sự phụ thuộc vào hàng hóa Anh. Ông ăn chay trường, thực hành nhịn ăn (fasting) như một hình thức tự kỷ luật và đấu tranh. Lối sống này của ông không chỉ là một biểu hiện cá nhân, mà còn là một bài học sâu sắc về sự thanh đạm, tự chủ và tinh thần đoàn kết với người dân lao động nghèo khổ. Nó khích lệ người dân Ấn Độ tẩy chay hàng hóa Anh, tự dệt vải, tự sản xuất, góp phần vào phong trào Swadeshi (tự lực cánh sinh).
Không có một khoảnh khắc nào trong cuộc đời Gandhi mà lời nói của ông không đi đôi với hành động. Ông sống đúng với những gì ông rao giảng. Điều này, tạo nên một uy tín và sức ảnh hưởng to lớn, khiến mọi người tin tưởng và sẵn sàng đi theo ông. Ông tự mình thực hiện các cuộc tuần hành dài hàng trăm dặm, tự nguyện vào tù, chịu đựng sự hành hạ mà không hề than vãn.
Ảnh hưởng của thân giáo Gandhi đã đem lại độc lập cho Ấn Độ. Phong trào bất bạo động do Gandhi lãnh đạo đã làm lung lay tận gốc rễ đế chế Anh, cuối cùng dẫn đến việc Ấn Độ giành được độc lập vào năm 1947. Triết lý và phương pháp đấu tranh của Gandhi đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều phong trào đấu tranh vì quyền dân sự và tự do trên khắp thế giới, tiêu biểu như phong trào của Martin Luther King Jr. ở Hoa Kỳ, Nelson Mandela ở Nam Phi.

Mahatma Gandhi (1869 -1948), người có công giúp Ấn Độ
dành lại chủ quyền thông qua phong trào bất bạo động.

Nhà hoạt động nhân quyền Martin LutherKing Jr, nhân vật trẻ tuổi nhất nhận
giải Nobel Hòa Bình vì những nỗ lực chấm dứt nạn kỳ thị chủng tộc qua biện pháp
bất tuân dân sự và các phương tiện bất bạo động khác.

Tổng thống da màu đầu tiên của Cộng hòa Nam Phi, Nelson Rolihlahla Mandela.
Chính quyền do ông lãnh đạo đã có nhiều nỗ lực nhằm xóa bỏ chế độ
phân biệt chủng tộc tại quốc gia này.
Vài tấm gương ở Việt Nam
Ở Việt Nam, lịch sử còn ghi tấm gương Chu Văn An (1292 – 1370). Ông là “Người thầy của muôn đời”, không chỉ nổi tiếng về tài năng giảng dạy mà còn được kính trọng vì phẩm hạnh và lòng chính trực. Khi làm quan dưới triều Trần, ông không ngần ngại dâng “Thất trảm sớ” xin chém 7 tên gian thần. Dù lời thỉnh cầu không được chấp thuận, ông vẫn giữ vững khí tiết, từ quan về quê dạy học. Cuộc đời ông là minh chứng cho sự kiên định với lẽ phải, không ham danh lợi, dốc trọn tâm huyết cho sự nghiệp giáo dục. Học trò của ông, dù là con vua hay thường dân, đều được đối xử công bằng và kính trọng ông vô cùng.
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), “Trạng Trình”, là một nhà giáo, nhà thơ và nhà tiên tri lớn. Dù từng đỗ Trạng nguyên và làm quan, ông luôn giữ lối sống thanh cao, giản dị. Khi nhận thấy triều đình có nhiều gian thần, ông đã dâng sớ hạch tội nhưng không được vua chấp thuận. Ông từ quan về quê, lập am Bạch Vân và mở trường dạy học. Ông đã đào tạo ra nhiều nhân tài lỗi lạc như Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Dữ, và chính cuộc đời thanh bạch, đức độ của ông đã là bài học lớn cho các thế hệ học trò.
Còn một tấm gương cần phải kể là Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888). Mặc dù bị mù cả hai mắt, nhưng ông vẫn kiên cường dạy học, bốc thuốc chữa bệnh cho dân nghèo và dùng ngòi bút của mình để đấu tranh chống thực dân Pháp. Ông từ chối mọi cám dỗ vật chất của kẻ thù, sống một cuộc đời thanh bạch, kiên trung. Tấm gương của Nguyễn Đình Chiểu là bài học về nghị lực phi thường, lòng yêu nước và tinh thần bất khuất...
Gần chúng ta là cố Hòa thượng Thích Minh Châu, người đã dành hầu hết cuộc đời cho việc hoằng pháp, tu học, phiên dịch kinh tạng, và đặc biệt là sự nghiệp giáo dục, đã sáng lập Đại học Vạn Hạnh (1965) và chủ trương đường hướng giáo dục khai phóng, vì Ngài quan niệm giáo dục là phải trang bị cho người học thái độ trí thức, tự mình suy tư kinh nghiệm và quyết định. Đó cũng chính là tinh thần khai phóng, đào tạo những con người có đạo đức, trí tuệ và bản lãnh, tôn trọng sự thật, lành mạnh thân tâm, có lòng tin vào xã hội và tinh thần xây dựng tương lai. Ngài cũng an lòng khi làm tròn vai trò xây dựng của một nhà giáo dục; làm cho tuổi trẻ sống dậy lòng tin, và trang bị cho tuổi trẻ chuẩn bị vào đời với những hành trang kiến thức, khả năng chuyên môn và nền tảng đạo đức.

Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm

Cố Hòa thượng Thích Minh Châu
Và còn nhiều tấm gương khác đáng để chúng ta học hỏi, chiêm nghiệm và noi theo.
Hãy nhớ chỉ có một con đường đưa đến sự hợp nhất giữa tư duy và hành động, đó là “lời nói phải đi đôi với việc làm”. Đạo đức vốn chỉ mang một khuôn mặt, chắc chắn không phải là mặt nạ!![]()



























































































































































Bình luận bài viết