NGƯỜI GIỮ KHO BÁU
HT. THÍCH THIỆN ĐẠO
Ngài A Nan - vị thị giả tận tụy của Đức Phật
Trong khế kinh, Đức Thế Tôn đã ân cần nhắc nhở: “Tài sản quý báu duy nhất của người cần cầu giải thoát là trí tuệ. Trong giáo pháp của Như Lai vũ khí duy nhất là trí tuệ để hàng phục kẻ thù duy nhất là vô minh”.
Từ lời dạy của Đức Thế Tôn, hành giả phải tư duy sâu sắc về bản chất của giải thoát. Không có trí tuệ soi đường thì con đường giải thoát khó đạt được, chí lớn khó thành tựu. Giải thoát là mục đích tối hậu của hành giả, trí tuệ là nên tảng vững chắc để giải thoát được hiển bày.
Trong các vị Thánh đệ tử của Đức Thế Tôn, Tôn giả A Nan là vị đệ tử lưu giữ đầy đủ thánh điển của Đức Thế Tôn hơn bất cứ ai, đó chính là do kết tinh sâu dày hạt giống trí tuệ vô lậu, do nhiều đời nhiều kiếp đã huân tập rốt ráo Định Trí Chủng Tử. Trí tuệ này được thành tựu do quá trình thanh lọc các pháp chướng ngại như tham dục, vọng tưởng, hoài nghi, phân biệt, chấp thủ… Khi vượt qua các chướng ngại này, hành giả sẽ đạt được phẩm hạnh thanh tịnh của một bậc Đại Trượng Phu, Đại Thanh Văn.
Do thành tựu được Định Trí Chủng Tử, và do nhiều đời làm thị giả chư Phật, cho nên Tôn giả A Nan đã chứng đạt được bốn nền tảng tri thức thượng thừa của một Thánh đệ tử, mà không ai có được.
1- Nền tảng tri thức thượng thừa thứ nhất: Ngài A Nan đã nghe nhiều lời pháp của Đức Thế Tôn hơn bất cứ ai, và nghe rất đầy đủ chính xác.
2- Nền tảng tri thức thượng thừa thứ nhì: Ngài A Nan đã nhớ lời dạy của Đức Thế Tôn hơn bất cứ ai, và nhớ không sai sót, không lẫn lộn.
3- Nền tảng tri thức thượng thừa thứ ba: Ngài A Nan đã hiểu lời dạy của Đức Thế Tôn hơn bất cứ ai, và tin tưởng vững chắc trên tất cả mọi học thuyết khác.
4- Nền tảng tri thức thượng thừa thứ tư: Ngài A Nan đã tin sâu sắc vững chắc Thánh giáo của Đức Thế Tôn hơn bất cứ ai, và tin tưởng tuyệt đối trên tất cả mọi học thuyết khác.
Trong đại hội kết tập kinh điển lần thứ nhất tại Thành vương xá gồm có 500 vị A La Hán, Ngài A Nan đã trùng tuyên thuộc lòng tất cả Thánh điển mà Đức Thế Tôn đã thuyết giảng suốt 45 năm. Do đã chứng nhập Văn trì Đà la ni tam muội, nên Ngài A Nan đã lưu nhập vào tàng thức tất cả lời Phật dạy.
Trước khi vào Niết Bàn, Đức Thế Tôn đã thọ ký cho Ngài A Nan các danh hiệu cao quý như sau:
- Như Lai Sứ Giả: Người xứng đáng diễn nói ý Phật.
- Như Lai Thanh Văn: Người xứng đáng được nhắc lại lời Phật đã dạy không sai sót.
- Như Lai Tàng Kinh Các: Người xứng đáng được lưu giữ Thánh giáo của Như Lai.
Vào đêm cuối cùng trước khi Đức Thế Tôn vào Đại Định Niết Bàn, Ngài đã ân cần giải thích cặn kẽ những hiện tượng mà Ngài A Nan thường thấy trong khi thiền định.
- Nước trong biển đều bốc lửa đỏ rực là dấu hiệu sau cùng trong giáo pháp của ta có sự tranh chấp, làm khuấy động bản chất thanh tịnh của giáo pháp và sự mất đoàn kết trong tăng đoàn.
- Khắp nơi mặt trời lặn, bóng tối bao trùm vạn vật là dấu hiệu sau này trong giáo pháp của ta, thánh đệ tử ít dần, ác pháp lộng hành, chúng sanh rơi vào vô minh tà kiến.
- Voi lớn bỏ rơi không bảo vệ voi con là dấu hiệu sau này giáo pháp của ta không còn được truyền thừa đúng pháp, mà tùy tiện không biết tôn trọng các truyền thống chân chính.
- Sư tử chúa bị sâu bọ vi trùng rút rỉa khắp thân thể cho đến chết là dấu hiệu sau này giáo pháp của ta không ai phá hoại được, mà chỉ có đệ tử của ta mới làm cho chánh pháp bị mai một.
Do những tính chất siêu việt nêu trên, mà Tôn giả A Nan được vinh dự tôn xưng là “Người giữ Kho Báu Chánh Pháp” qua câu nói: “Nếu chánh pháp là kho tàng vô giá, thì Tôn giả A Nan là người có khả năng gìn giữ kho tàng ấy chắc chắn nhất”.
Bình luận bài viết