NGƯỜI TRUNG QUỐC ĐÁNH GIÁ CHỮ HÁN NHƯ THẾ NÀO?
NGUYỄN HẢI HOÀNH
Sáng tạo chữ viết là một thành tựu vĩ đại của loài người. Nhờ có chữ viết, nhân loại tiến một bước nhảy vọt từ thời đại tiền sử man rợ sang thời đại văn minh có sử sách ghi chép. Chữ viết là công cụ để ghi chép ngôn ngữ, mà ngôn ngữ là công cụ để suy nghĩ, tư duy, như vậy chữ viết là công cụ để ghi chép tư duy, ý nghĩ của con người, nhờ đó ý nghĩ có thể truyền đi xa và lâu. Nhưng làm ra chữ viết ở thời xưa là việc rất khó và cần thời gian hàng trăm hàng nghìn năm. Vì thế loài người cùng tiếng nói của họ tuy đã tồn tại hàng triệu năm nhưng chữ viết chỉ mới ra đời trong khoảng 5-6.000 năm gần đây.
Chữ Hán là chữ viết của người Trung Quốc, có lịch sử hơn 3.300 năm. Người Trung Quốc coi chữ Hán là vật tượng trưng cho văn hóa Trung Hoa, là báu vật thiêng liêng tổ tiên để lại; họ sùng bái chữ Hán như chữ của thần thánh, mấy nghìn năm qua không ai dám nói gì đến các mặt hạn chế của chữ Hán. Cho tới nay ai đánh giá không tốt về chữ Hán sẽ bị họ đả kích không thương tiếc.
Mọi người đều biết, chữ viết là công cụ để ghi chép ngôn ngữ, mà đã là công cụ thì phải đáp ứng yêu cầu càng đơn giản càng tiện dụng càng tốt; nghĩa là phải luôn cải tiến để tốt hơn. Muốn vậy phải đánh giá xem công cụ đã tốt chưa. Nói cách khác, mọi công cụ đều phải được đánh giá; chữ Hán cũng phải được xem xét đánh giá. Nhưng người Trung Quốc bắt đầu đánh giá chữ Hán rất muộn.
Năm 1894, quân đội nhà Thanh Trung Quốc thảm bại trong cuộc Chiến tranh Giáp Ngọ với nước Nhật, giới trí thức Trung Quốc như tỉnh dậy sau mấy nghìn năm ngủ say trong giấc mơ nước mình giỏi nhất, mạnh nhất thế giới. Thua trận, Trung Quốc phải mở cửa đất nước; từ đó văn hóa phương Tây tràn vào. Nhờ đó giới tinh hoa nước này có điều kiện so sánh chữ Hán với chữ phiên âm (còn gọi chữ ghi âm) của phương Tây lần đầu họ thấy.
Học giả Đỗ Tử Kình nói: Nước người ta mạnh vì họ phổ cập giáo dục chứ không chỉ vì có tàu to súng lớn, mà “sở dĩ phổ cập được giáo dục là do họ dùng chữ viết kiểu phiên âm rất tiện lợi. Chữ viết của ta quá lạc hậu khiến cho giáo dục phát triển méo mó, quốc gia ngày càng suy yếu. Vì thế Tống Hành, Đàm Tự Đồng, Lương Nhiệm Công đều tuyên bố chữ Hán có tội và đề xướng cải tạo chữ Hán. Trong sách Nhân học, Đàm Tự Đồng chủ trương phế bỏ chữ Hán; đây là phát súng đầu tiên bắn vào chữ Hán trong hơn 2.000 năm”.
Năm 1892, học giả Lô Tráng Chương (1854-1928) đầu tiên đưa ra phương án chữ phiên âm (thời ấy gọi là thiết âm) cho Hán ngữ. Lô nói: Chữ Trung Quốc khó nhất thế giới, ngoài Trung Quốc ra, các nước đều dùng chữ phiên âm chỉ có ba chục chữ cái.
Cho tới năm 1911 (năm nổ ra Cách mạng Tân Hợi) các học giả đã đề ra 28 phương án chữ phiên âm, nhưng họ không đề nghị bỏ chữ Hán mà chủ trương dùng song song với chữ Hán. Tuy 28 phương án này đều chưa được thực thi nhưng các tác giả đã làm được hai việc: - Đả phá “Thuyết chữ Hán thiêng liêng”, xây dựng “Thuyết chữ Hán (là) công cụ”; - Đưa chữ phiên âm vào Trung Quốc dùng làm hệ tham chiếu để đánh giá chữ Hán.
Năm 1908, trên tờ “Tân thế kỷ chu san” nhà ngôn ngữ Ngô Trĩ Huy tuyên bố Trung Quốc cần bỏ Hán ngữ, dùng Thế giới ngữ Esperanto. Một số học giả đề nghị dùng chữ La Mã.
Thời Ngũ Tứ là thời kỳ khai sáng của Trung Quốc, dân chúng khắp nơi đòi khoa học và dân chủ, triệt để phủ định thuyết chữ Hán thiêng liêng, chủ trương bỏ chữ Hán. Năm 1918, nhà ngôn ngữ Tiền Huyền Đồng (1887-1939) viết bài trên báo “Tân Thanh niên” chủ trương bỏ chữ Hán dùng Thế giới ngữ. Phó Tư Niên, sinh viên Đại học Bắc Kinh nói: Nguồn gốc chữ viết của Trung Quốc cực kỳ dã man, hình dạng hết sức kỳ dị, học chữ cực kỳ bất tiện, ứng dụng cực kỳ không kinh tế… tuyệt đối nên thay chữ Hán bằng chữ phiên âm, Hán ngữ tuyệt đối có khả năng biểu đạt bằng chữ phiên âm.
Tiền Huyền Đồng là lá cờ đầu của phong trào Ngũ Tứ, ông chủ trương cải cách chữ Hán, đề xuất chữ giản thể (chữ bớt nét). Năm 1923 ông viết bài “Cách mạng chữ Hán” đăng trên “Quốc ngữ nguyệt san - Hán tự cách mạng”, có tiếng vang rất lớn. Ông kết luận: Tuyệt đối có thể làm cuộc cách mạng chữ Hán, chuyển sang dùng chữ phiên âm với chữ cái La Mã thông dụng. Ông nói: Những người có tư tưởng mới đều biết các tội ác của chữ Hán như khó học, khó viết, gây trở ngại cho việc phổ cập giáo dục và truyền bá tri thức … Điều tồi tệ nhất là chữ Hán không hòa nhập với văn hóa thế giới hiện đại.
Cù Thu Bạch (1899-1935), nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc hồi ấy từng nói những lời quá khích, chẳng hạn nói: Chữ Hán đã trở thành cái xác chết cứng đờ. Ngôn ngữ Trung Quốc phải phát triển tiếp. Muốn có một đời sống văn hóa mới hiện đại thì phải hoàn toàn bỏ chữ Hán. Như vậy mới có thể thực sự phát triển được văn bạch thoại nói và viết, đồng thời thoát khỏi sự trói buộc của chữ Hán - thứ chữ thực sự là hố phân bẩn thỉu nhất thời trung thế kỷ.
Đại văn hào Lỗ Tấn (1881-1936) cũng có thái độ phủ định chữ Hán. Ông nói: “Chữ Hán là báu vật thời cổ truyền lại, nhưng tổ tiên ta còn cổ xưa hơn cả chữ Hán, cho nên chúng ta càng là báu vật thời cổ truyền lại. Vì chữ Hán mà hy sinh chúng ta hay là vì chúng ta mà hy sinh chữ Hán?... Chữ Hán là khối u trên cơ thể đại chúng lao khổ Trung Quốc, vi rút tiềm ẩn bên trong khối u ấy, nếu không cắt bỏ khối u thì kết quả sẽ chết. Tôi cho rằng chữ Hán khối vuông bản thân là một triệu chứng của sự chết, ăn chút nhân sâm hoặc nghĩ biện pháp nào đó, cố nhiên có thể kéo dài sự sống nhưng cuối cùng vẫn không thể cứu được…” Khi ốm nặng, ông trăn trối: “Không diệt chữ Hán thì Trung Quốc ắt mất nước”.
Trong nửa đầu thế kỷ XX, người Trung Quốc đã thiết kế một số phương án chữ phiên âm với mục tiêu thay cho chữ Hán, trong đó phương án chữ Quốc ngữ La Mã và phương án chữ mới Latinh hóa là hai phương án tương đối có ảnh hưởng. Chính phủ Quốc dân không thừa nhận chữ quốc ngữ La Mã là chữ viết, chỉ thừa nhận là ký hiệu chú âm quốc ngữ, lại càng phủ nhận chữ Latinh hóa. Nhưng tại vùng chiến khu của đảng Cộng sản, chữ phiên âm Latinh hóa được ủng hộ mạnh.
Sau ngày nước CHND Trung Hoa ra đời (1/10/1949), việc đánh giá chữ Hán vẫn kế thừa truyền thống cách mạng chữ Hán của phong trào Ngũ Tứ, tiếp tục cho rằng chữ Hán phức tạp rối rắm khó học khó dùng, gây trở ngại cho sự phát triển giáo dục và khoa học, nhưng đã loại bỏ quan điểm lệch lạc phủ định toàn diện chữ Hán, không còn theo chủ trương cực đoan “Bỏ chữ Hán” nữa.
Nghị quyết của Hội nghị toàn quốc về cải cách chữ Hán (10/1955) viết: Chữ Hán phải cải cách, việc cải cách căn bản cần phải theo phương hướng chung của thế giới là chữ phiên âm; nhưng trước mắt phải dần dần đơn giản hóa chữ Hán đồng thời ra sức phổ cập tiếng Phổ thông lấy ngữ âm Bắc Kinh làm âm tiêu chuẩn - tức tiếng nói chung của dân tộc Hán.
Ngày 26/10/1955, Nhân dân Nhật báo ra xã luận “Cố gắng đẩy mạnh cải cách chữ Hán, phổ cập tiếng Phổ thông, thực hiện quy phạm hóa Hán ngữ”. Xã luận viết: Ai cũng thừa nhận chữ Hán từng có cống hiến vĩ đại trong lịch sử văn hóa lâu đời nước ta. Mấy nghìn năm qua, các thư tịch của Trung Quốc cổ đại đều nhờ vào chữ Hán mà được bảo tồn. Sau đây, trong thời kỳ nước ta xây dựng và cải tạo CNXH, chữ Hán sẽ được đông đảo quần chúng nhân dân sử dụng rộng rãi hơn. Trong tương lai lâu dài chữ Hán vẫn sẽ tiếp tục tồn tại và được nhiều người nghiên cứu. Nhưng không thể phủ nhận rằng chữ Hán có những khuyết điểm nghiêm trọng, vì thế đem lại khó khăn rất lớn cho việc học tập và sử dụng. Do chữ Hán khó nhận biết, khó viết, khó nhớ, làm cho giáo dục phổ thông của nước ta hao phí nhiều thời gian hơn vào việc dạy và học chữ. Chữ Hán là một gánh nặng trầm trọng trong giáo dục nhi đồng, giáo dục người lớn và công tác xóa nạn mù chữ. Nếu giữ nguyên hiện trạng của chữ Hán mà không cải cách thì sẽ nghiêm trọng trở ngại cho việc phổ cập và nâng cao giáo dục văn hóa nhân dân, cũng rất bất lợi cho sự nghiệp công nghiệp hóa và phát triển kinh tế của đất nước.
Nhân dân Nhật báo ngày 3/5/1964, đăng bài “Cải cách chữ Hán và cơ giới hóa chữ viết ở nước Nhật” của Quách Mạt Nhược (1892-1978, Chủ tịch Viện Khoa học TQ), trong có viết: “Chữ Hán là loại chữ viết sáng tạo độc đáo của Trung Quốc, thư pháp của Trung Quốc là một nghệ thuật có tính sáng tạo độc đáo. Nhưng thẳng thắn mà nói, xét trên mặt sử dụng chữ viết thì loại chữ tốt đẹp có tính sáng tạo độc đáo này đúng là một công cụ khó nắm bắt. Số lượng chữ quá nhiều, âm đọc không chính xác. Tuy đã dùng chữ Hán hơn 60 năm, nhưng cho tới nay tôi vẫn còn gặp những chữ mình chưa biết, không tra tự điển thì không xong”. “Chúng ta đang xây dựng CNXH nhanh nhiều tốt rẻ, yêu cầu thực hiện hiện đại hóa nông nghiệp, công nghiệp, quốc phòng và khoa học kỹ thuật với tốc độ cao. Ở đây, có một vấn đề mấu chốt là phải phổ cập và nâng cao giáo dục với hiệu suất cao hơn. Muốn giải quyết tốt vấn đề này thì xem ra việc đơn giản hóa hoặc hiện đại hóa chữ viết là không thể tránh được.” “Cơ giới hóa, tự động hóa và cao tốc hóa công tác chữ viết là một quá trình nổi bật trong sinh hoạt văn hóa hiện đại. Cơ giới hóa công tác chữ viết đòi hỏi số lượng đơn nguyên ký hiệu chữ viết không được quá nhiều; chữ phiên âm rất thích hợp yêu cầu này. Số lượng đơn nguyên chữ Hán quá nhiều, tuy có thể chế tạo các loại máy chữ Hán nhưng sử dụng rất không thuận tiện linh hoạt, hiệu suất quá thấp mà giá thành quá cao”.
Từ sau ngày Trung Quốc thi hành chính sách cải cách mở cửa (1979), giới học thuật Trung Quốc tranh luận sôi nổi hơn trước, nhờ thế việc nghiên cứu chữ Hán có phát triển mới, phạm vi thảo luận rộng rãi hơn. Dưới đây trình bày quan điểm của một số học giả tiêu biểu về việc đánh giá chữ Hán, các quan điểm này đại diện cho những kết quả mới nhất về nghiên cứu đánh giá chữ Hán. Qua đó có thể thấy hiện nay việc nghiên cứu chữ Hán đã thoát ra khỏi các hạn chế trước đây, đi lên con đường khoa học.
Tháng 5/1979, học giả Nghê Hải Thự phát biểu: Trước đây nói không cải cách chữ viết thì không xóa được nạn mù chữ, không phổ cập được giáo dục… nay lại nói không cải cách chữ viết thì không thực hiện được hiện đại hóa. Nói như vậy phải chăng là thiếu phân tích. Các nước Mỹ Latinh đã thực hiện cải cách chữ viết nhưng số người mù chữ còn rất nhiều… Đây là vấn đề chế độ giáo dục và chế độ xã hội. Một số nước chưa cải cách chữ viết như Nhật, Hàn Quốc đã thực hiện hiện đại hóa. Nhưng một số nước đã cải cách chữ viết như Mông Cổ, Indonesia, Việt Nam lại chưa thực hiện hiện đại hóa… Phiến diện nói chữ Hán tồi, người ta không chịu; phiến diện nói chữ phiên âm tốt, người ta cũng không chịu. Chữ Hán có ưu điểm, chữ phiên âm có khuyết điểm, phải xem xét toàn diện. Thập niên 50 ta phiến diện phê bình, phủ định chữ Hán. Hồ Kiều Mộc từng nói chữ Hán như một cây đại thụ; anh phê bình chỗ lá này của nó không tốt, chỗ cành kia không tốt ; sự phê bình ấy không rung chuyển được cái gốc của nó.
Năm 1985, Trương Chí Công nêu lên hai ưu điểm nổi trội của chữ Hán. Thứ nhất, chữ Hán thích ứng với Hán ngữ, thể hiện trên hai mặt: - Hán ngữ là ngôn ngữ phi hình thái, không dùng âm tố để biểu thị sự biến đổi hình thái; - Hán ngữ chủ yếu là ngữ tố đơn âm tiết. Chính vì thế chữ Hán mới dùng một ký tự để biểu thị một âm tiết, một ngữ tố. Chữ Hán thích ứng với Hán ngữ, đây là nguyên nhân căn bản nhất làm cho chữ Hán giàu sức sống. Nếu không thích ứng thì chữ Hán không sống nổi. Thứ hai, không thể coi nhẹ tác dụng do “hình” của chữ Hán gây ra. “Hình” này có hai tác dụng lớn nhất: - Có lợi cho việc đọc chữ; - Nếu vận dụng tốt sẽ có lợi cho phát triển trí lực.
Ông Trương nói chữ Hán ít nhất có 2,5 khó khăn rất không dễ giải quyết: - Mới học (trong vòng khoảng 500-1.000 chữ) thấy khó, vì trong giai đoạn này chữ Hán rất khó liên hệ với ngôn ngữ. Mới học đã thấy khó, điều này làm tổn hại sự tự tin và tự tôn, hứng thú học của trẻ, ức chế sự phát triển trí lực. - Khó giao lưu văn hóa quốc tế. Ta không thể ép người nước khác học chữ Hán, hơn nữa chữ Hán không thể ghi được ngôn ngữ các nước; chữ Hán gây trở ngại cho việc giao lưu văn hóa với quốc tế. - Khó cơ giới hóa việc ghi và truyền chữ viết, mang lại rất nhiều khó khăn cho việc sử dụng máy chữ, máy tính, máy telex, dịch máy. Sở dĩ nói đây là một nửa (0,5) khó khăn, vì khó khăn này có thể dần dần giải quyết bằng kỹ thuật, tuy sẽ mất nhiều công sức, thời gian… Tóm lại, chữ Hán vừa có tính ưu việt vừa có những khuyết điểm khá nghiêm trọng. Cũng nên thấy rằng một số mặt lợi của chữ Hán đồng thời tất nhiên đem lại một số mặt bất lợi. Ví dụ tự hình có mặt lợi, nhưng cũng có mặt hại như sinh ra bệnh nhìn chữ đoán nghĩa, tạo thuận tiện cho việc tự bịa ra từ ngữ, dễ lẫn lộn văn ngôn với bạch thoại v.v…
Tháng 12/1986, nhà ngôn ngữ học nổi tiếng Lã Thúc Tương (1904-1998) nói: Chữ Hán có ưu điểm cũng có khuyết điểm. Chữ phiên âm cũng vậy. Tôi cần nói rằng: Thứ nhất, dù chữ Hán hay chữ phiên âm, ưu điểm và khuyết điểm của chúng đều gắn với nhau; thứ hai, ưu điểm của chữ Hán lại chính là khuyết điểm của chữ phiên âm; khuyết điểm của chữ Hán lại chính là ưu điểm của chữ phiên âm.
Chữ Hán có những ưu điểm: 1- Mỗi chữ Hán đại diện cho một ngữ tố trong Hán ngữ, nó tập họp ba yếu tố tự hình, âm đọc chữ và nghĩa chữ (tự nghĩa) vào một, tiện cho việc độc lập sử dụng; 2- Âm như nhau mà nghĩa khác nhau, tiện cho việc phân biệt các chữ đồng âm; 3- Âm đọc chữ Hán khác nhau tùy theo địa phương, tùy theo thời đại, vì thế văn viết bằng chữ Hán thì nơi nào, thời nào cũng hiểu được. 4- Dùng chữ Hán in sách, phần chữ chiếm ít diện tích, tiết kiệm được giấy in.
Thế nhưng các ưu điểm trên cũng đem lại những khuyết điểm tương ứng. Thứ nhất, ưu điểm đầu tiên cũng là đặc điểm cơ bản nhất của chữ Hán, đem lại nhiều khuyết điểm: - Do tự hình không biểu thị âm đọc chữ (“Chữ hình thanh” thực sự đồng âm chỉ là số ít) và cũng chẳng thể nhìn tự hình là biết tự nghĩa, vì thế phải có thầy dạy từng chữ, không tiện cho việc tự học; - Vì một ngữ tố là một chữ nên số lượng chữ Hán vô cùng nhiều, việc phân biệt tự hình và nhớ âm đọc chữ cũng như tự nghĩa rất mất công sức; - Do cấu tạo của tự hình lắm hình lắm dạng, nên rất khó thu xếp được một thứ tự vừa rõ ràng chính xác vừa giản tiện, vì thế gây bất tiện cho việc soạn từ điển, soạn biên mục (index).
Thứ hai, ưu điểm âm như nhau mà chữ khác nhau, tuy có tiện cho việc phân biệt các chữ đồng âm nhưng cũng dễ làm người ta viết sai chữ. Phần lớn chữ viết sai là do âm đọc như nhau hoặc gần như nhau gây ra.
Thứ ba, ưu điểm “văn viết bằng chữ Hán thì nơi nào, thời nào cũng hiểu được” phải trả giá bằng việc chữ viết tách rời lời nói (khẩu ngữ). Âm đọc chữ Hán khác nhau tùy theo địa phương, điều đó khiến cho nó không thể dùng làm công cụ phổ cập tiếng Phổ thông. Bạch thoại và văn ngôn đều viết bằng chữ Hán, do đó dễ sinh ra loại chữ chẳng văn ngôn cũng chẳng bạch thoại, nửa văn ngôn nửa bạch thoại.
Thứ tư, dùng chữ Hán in sách có thể tiết kiệm giấy in, nhưng khi đọc sách sẽ tốn công và hại mắt bởi lẽ cùng con chữ chì (để sắp chữ trên máy in cổ), chữ Hán nhiều nét, chữ phiên âm ít nét. Hiện nay học sinh từ tiểu học đến trung học có tỷ lệ đeo kính cận tăng theo sự lên lớp, điều đó có phần do sách giáo khoa và sách in nói chung dùng chữ cỡ nhỏ.
Chữ phiên âm có những ưu khuyết điểm nào? Thứ nhất, ứng với các khuyết điểm ở nhóm 1 của chữ Hán: - Chữ Hán nhìn mặt chữ mà không biết âm đọc và nghĩa của chữ. Trong chữ phiên âm, nếu biết đánh vần thì sẽ biết đọc âm của chữ, đọc được thì biết nghĩa của chữ; - chữ Hán phải phân biệt hàng nghìn tự hình còn chữ phiên âm chỉ cần phân biệt 26 chữ cái là được; - chữ Hán không có thứ tự cố định còn thứ tự của chữ phiên âm thì cố định; chữ dùng các chữ cái ghép lại đều có thứ tự cố định, rất tiện khi soạn tự điển, soạn biên mục (index). Thứ hai, chữ Hán có nhiều chữ đồng âm. Trong chữ phiên âm, do lấy từ làm đơn vị ghép vần nên ít chữ đồng âm (nếu không đánh dấu giọng thì cũng có khá nhiều chữ đồng âm, song vẫn ít hơn ở chữ Hán). Thứ ba, chữ Hán tách rời với lời nói, còn chữ phiên âm kết hợp với tiếng nói nên có lợi cho việc phổ cập tiếng Phổ thông. Thứ tư, cùng một con chữ rời (để sắp chữ khi in), chữ cái phiên âm trông thanh thoát hơn (vì ít nét hơn chữ Hán).
Có thể từ các ưu điểm của chữ Hán mà suy ra các khuyết điểm của chữ phiên âm, việc này mọi người có thể tự làm lấy. Qua đó mỗi người sẽ tự đánh giá tổng quan về chữ Hán và chữ phiên âm. Có một điểm cần nói là: Trong chữ phiên âm, không dễ phân biệt thấy ngữ tố của Hán ngữ. Nói chung một âm tiết đơn độc không thể biểu thị một ý nghĩa chính xác rõ ràng, nghĩa là không thể phân biệt các ngữ tố đồng âm….
Nhà ngôn ngữ học Châu Hữu Quang (1906-2017, cha đẻ phương án Pinyin chữ Hán) có quan điểm như sau: Bản thân chữ Hán có tính hai mặt; một mặt là tính kỹ thuật, mặt khác là tính nghệ thuật. Người coi trọng tính kỹ thuật trở thành “Phái cải cách” chữ Hán. Người coi trọng tính nghệ thuật trở thành “Phái quốc túy” của chữ Hán. Bất cứ chữ viết nào cũng có tính hai mặt, nhưng chữ phiên âm có tính kỹ thuật mạnh mà tính nghệ thuật yếu. Chữ Hán thì yếu tính kỹ thuật, mạnh tính nghệ thuật. Đó là do chữ viết càng gần hình vẽ nguyên thủy thì tính nghệ thuật càng mạnh; càng xa hình vẽ nguyên thủy thì tính nghệ thuật càng yếu. Chữ phiên âm cách hình vẽ nguyên thủy rất xa, “gene nghệ thuật” trở nên yếu, cho nên tuy chữ phiên âm cũng cần viết cho ưa nhìn, nhưng “nghệ thuật thư pháp” của nó không thể phát triển được. Khi kỹ thuật viết chữ từ viết tay tiến lên đánh máy rồi xử lý trên máy tính thì “nghệ thuật thư pháp” dựa vào thủ công bị thoái hóa. Chữ Hán thì khác, nó cách hình vẽ nguyên thủy không xa cho nên “gene đồ họa” của nó không bị thoái hóa. Vì vậy, sau khi các “chữ viết ý âm” (như chữ hình nêm, chữ Thánh thư) rút ra khỏi sân khấu lịch sử, thì “nghệ thuật thư pháp” của chữ Hán thực sự một mình chiếm vũ đài. Nhưng vì thế mà nó mang lại tác dụng phụ, như yêu thích lệch về nghệ thuật, coi nhẹ kỹ thuật, ưu thế nghệ thuật của chữ Hán đã che lấp nhược điểm về kỹ thuật. Trong thời gian chuyển tiếp từ văn minh cổ đại sang văn minh hiện đại, tính hai mặt của chữ Hán còn thể hiện ở mâu thuẫn giữa hai loại văn minh. Chữ Hán vừa là “báu vật” của văn minh cổ đại lại vừa là “gánh nặng” của văn minh hiện đại. Khi đã nhận thức được như vậy thì rất khó có thể lại khẳng định chữ Hán chỉ là “báu vật” mà không phải là “gánh nặng”.
Nhìn chung quan điểm của Châu Hữu Quang được nhiều người tán thành.
Tóm lại, người xưa cho rằng chữ Hán là “báu vật”, còn giới học giả Trung Quốc hiện đại cho rằng chữ Hán vừa là “báu vật” vừa là “gánh nặng”. Dư luận Trung Quốc phổ biến coi sự chuyển biến này trong đánh giá chữ Hán là một bước tiến. Biên bản Hội nghị thảo luận học thuật vấn đề chữ Hán (12/1886) viết: Tương đối nhiều người có khuynh hướng sử dụng “Nhất ngữ lưỡng văn” (còn gọi là “chế độ Song văn”. Nhất ngữ là nói phổ cập một thứ tiếng Phổ thông trong cả nước. Lưỡng văn hoặc song văn là nói đồng thời dùng hai thứ chữ viết, là chữ Hán và chữ Pinyin, trong đó chữ Pinyin chỉ dùng với tính chất phụ trợ để ghi âm đọc của chữ Hán). Còn nói tương lai thế nào, chuyện ấy sẽ do con cháu sau này lựa chọn quyết định.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Nghiên cứu chữ Hán hiện đại của thế kỷ XX. Tô Bồi Thành. Nxb. Thư Hải, 8.2001.
- Các tài liệu trên mạng.
Bình luận bài viết