NHÀ SƯ THÍCH PHÁP LỮ (1927-2019)
NGUYỄN ĐẠI ĐỒNG

Đại tá Đinh Thế Hinh (pháp danh Thích Pháp Lữ trước khi xả giới nhập thế)
Ông thế danh Đinh Thế Hinh, sinh năm 1927, quê làng Liêu Thượng, xã Xuân Thành, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, trong một gia đình có 8 người con, ông là con út. Cha ông là cụ Đinh Văn Các là một nông dân chất phác, đôn hậu. Vốn sinh ra là một con người khá thông minh đĩnh ngộ, ông Hinh đã được ưu ái cho được học hành từ tấm bé nên chữ nghĩa nhiều, kiến văn nhiều.
Năm 13 tuổi, ông xuất gia từ chùa Một (Liêu Thượng), sau đó theo Phật ở chùa Cổ Lễ (Trực Ninh), chùa Bút Tháp (Thuận Thành, Bắc Ninh), chùa Quán Sứ, Hà Nội, chùa Côn Sơn (Chí Linh, Hải Dương), chùa Tế Xuyên (Hà Nam).
Ngày 19 tháng 8 năm 1945, ông tham gia Đội Thanh niên Phật tử quân do Thượng tọa Thích Thanh Đắc (Vũ Nguyên Hồng hay Vũ Đại Nguyên) và sư ông Thích Pháp Không chỉ huy sau khi tham gia cướp chính quyền tại địa phương (chùa Bút Tháp, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) về chùa Bà Đá, Hà Nội. Được sự giúp đỡ của Hòa thượng trụ trì Đỗ Văn Hỷ (Thích Thanh Thao), Đội tuyển chọn thêm những Tăng Ni trẻ ở chùa, quân số lên tới hơn 50 người do sư ông Pháp Không và Pháp Lữ chỉ huy. Ngày đêm, anh em luyện tập côn quyền hoặc tập trung nghe cán bộ Việt Minh giảng giải về đường lối chính trị của Cách mạng.
Cuối năm 1945 đầu năm 1946, sư được điều về chùa Cổ Lễ, tỉnh Nam Định.
Cuối tháng 12 năm 1946, sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh hiệu triệu “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” và Trung ương Đảng ra Chỉ thị toàn quốc kháng chiến, Thượng tọa Phạm Thế Long, trụ trì chùa Cổ Lễ, cho gọi sư Trí Không - ủy viên Hội Phật giáo Cứu quốc Nam Định và Thích Pháp Lữ lên thư phòng, hỏi: “Chúng ta là người xuất gia, phụng Đạo nhưng đều mang dòng máu Tiên-Rồng. Quốc gia lâm nguy, Phật pháp bất ly thế gian pháp, các con có sáng kiến gì không?”.
Sư Trí Không mạnh dạn đáp lời: “Bạch sư phụ! Việc đời loạn, nghiệp tu hành cũng không thể yên ổn. Con nghĩ, trong giới Phật tử rất nhiều Tăng Ni có tâm huyết và xả thân cứu nước. Mong sư phụ làm lễ “Giải pháp y”, thành lập Đội Nghĩa sĩ Phật tử, cho phép các Tăng Ni rời cửa thiền ra chiến trường đánh giặc”.
Thượng tọa Phạm Thế Long cảm kích cầm tay hai người huấn rằng: “Các vị nói rất phải, quả là chúng ta không thể làm khác. Ta giao cho Trí Không và Tường Minh lo việc liên hệ với các đơn vị nhận quân. Pháp Lữ lo việc vận động các Tăng Ni tới chấp tác sửa soạn nghi trai làm việc lớn”.
Pháp Lữ, Trí Không và Tường Minh tuân lời sư phụ đi vận động khắp các chùa trong huyện Trực Ninh và thành Nam Định tổng cộng được 27 người, trong đó có 2 sư cô Đàm Hồng, Đàm Nhung và cả chú tiểu Thích Chấn Hưng tự nguyện tham gia kháng chiến. Trước ngày ra trận, các nhà sư được Đại đức Tường Minh dạy võ thuật; hai sư cô được học cấp tốc những bài thuốc, cách chăm sóc thương binh, may vá quần áo bộ đội…
Ngày 27 tháng 2 năm 1947, Lễ cởi áo cà sa mặc chiến bào được cử hành trọng thể tại chùa Cổ Lễ. Sau lời khai mạc của Thượng tọa Phạm Thế Long, Đại đức Thích Pháp Lữ lên đọc bài thơ phát nguyện, thề:
“Nghe theo tiếng gọi của núi sông
Cà sa gửi lại chốn thư phòng
Xông ra tiền tuyến trừ hung bạo
Thực hiện từ bi lực phải hùng”.
Sau đó là lễ Tam bảo, Tứ ân, 27 Tăng Ni đồng loạt tọa thiền, rồi đồng thanh tụng kinh Bát Nhã và đọc 4 câu nguyện của chư Phật, Bồ tát. Khi câu kệ vừa dứt, các sư đứng lên cởi áo cà sa, khoác lên mình bộ chiến bào Vệ quốc quân. Thượng tọa Phạm Thế Long đỡ các tấm áo cà sa đặt trước bàn thờ Phật. Đại đức Thích Tường Minh hô “đội mũ”. Đồng loạt 27 vị đội mũ có gắn sao vàng lên đầu. Bà con dự lễ vỗ tay như sấm dậy. Từ lúc ấy, họ đã trở thành Chiến sĩ vệ quốc.
Sau buổi lễ phát nguyện nhập thế trang trọng ấy, 27 nhà sư chiến sĩ được các đơn vị bộ đội tiếp nhận huấn luyện, giao nhiệm vụ tham gia bảo vệ thành Nam Định và chùa Non Nước Ninh Bình, đã có 12 vị ngã xuống.
Cuộc đời binh nghiệp của Đại tá Đinh Thế Hinh trải dài qua nhiều chiến trường ác liệt. Từ bảo vệ thành Nam Định, Hải Phòng đến tham gia chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, rồi tiến vào Trường Sơn, chiến đấu ở A Sầu - A Lưới, sang Campuchia làm cố vấn quân sự. Dù ở đâu, ông cũng giữ vững tinh thần thép của một người lính và trái tim nhân hậu của một Phật tử.
Nghỉ hưu năm 1989, ông vẫn tiếp tục cống hiến, nghiên cứu về Phật giáo, về lịch sử, viết sách và báo, lưu giữ những giá trị văn hóa.

Chùa Cỗ Lễ, nơi 27 nhà sư cởi áo cà sa, khoác chiến bào
Nghiên cứu chùa chiền, ông có sách Chùa Cổ Lễ (1993), ông viết về chùa Một (Liêu Thượng) quê hương, nơi ông xuất gia đầu Phật. Ông viết về chùa Chân Tiên Hà Nội, tháp Báo Thiên thời Lý, tháp Báo Ân thời Trần, chùa Tôn Quy, Khánh chùa Thanh Quang. Ông quan tâm viết về các nhân vật lịch sử như Lý Thái Tổ, Lý Nhân Tông, Lý Thường Kiệt, Nguyên phi Ỷ Lan, Ngô Thì Nhậm và Lê Quý Đôn. Ông đi sâu vào các lĩnh vực Phật học, khai thác các khía cạnh tích cực đóng góp cho việc giáo dục nhân cách con người như tinh thần nhập thế đồng hành cùng dân tộc của Phật giáo, lý thuyết nhân quả, cây lành quả phúc, Những điều nhiệm màu của phép tọa Thiền… Ông còn tích cực tham dự các cuộc hội thảo khoa học về Phật giáo với các tham luận về Phật hoàng Trần Nhân Tông, về Thiền sư Trí Hải, Hòa thượng Tố Liên, về Hòa thượng Thích Thế Long, v.v…
Những bài viết của ông luôn tràn đầy tính lạc quan của một con người luôn luôn chỉ biết nhìn về phía trước. Ông còn tự làm hàng loạt các đĩa phim tư liệu về chùa Một, chùa Cổ Lễ, về xã Xuân Thành, về dòng họ, về truyền thống quê hương, về cuộc đời mình.
6h10 ngày 29 tháng 8 năm 2019 (29/7 năm Kỷ Hợi), ông ra đi ở tuổi 93, để lại tấm gương sáng về lòng yêu nước, về sự hòa quyện giữa Đạo và Đời, giữa lý tưởng chiến đấu và triết lý nhân sinh cao đẹp.![]()

Vườn tượng, nơi thờ 12 vị sư đã anh dũng hy sinh tại chùa Cổ Lễ.



























































































































































Bình luận bài viết