Thông tin

NHÂN VẬT PHẬT GIÁO VIỆT NAM - VẦN Minh

Minh

 

- Thích Bình Minh (1924-1988), Hòa thượng Luật sư, thế danh Nguyễn Bình Minh, năm 1938 xuất gia với Sư cụ Thanh Tiên - chùa Tuân Lục - Nam Định, pháp danh Quảng Tuấn. Năm 1944, ngài học với tổ Tuệ Tạng ở chùa Bồ Đề - Gia Lâm. Năm 1945-1954, ngài y chỉ vào tổ Tuệ Tạng chuyên tâm học luật. Năm 1951-1954, ngài ra chùa Quán Sứ học Trung cấp về ngoại điển. Năm 1954, ngài vào Nam, trú ở chùa Ấn Quang. Năm 1957, ngài giữ chức Tổng thư ký Giáo hội Tăng già Bắc Việt. Năm 1961, ngài khai sơn và trụ trì chùa Hòa Bình, quận 10. Năm 1964, ngài làm Đặc ủy Tăng sự miền Vĩnh Nghiêm. Năm 1972, ngài cùng phái đoàn đi dự Đại hội PG Liên hữu Thế giới lần thứ 10 tại Tích Lan, sau đó ngài giữ chức Tổng vụ trưởng Tổng vụ Phật học GHPGVNTN và Đặc ủy Phật học miền Vĩnh Nghiêm. Năm 1983-1984, ngài dạy luật tại PHV Thiện Hòa và bắt đầu mở lớp gia giáo giảng môn Luật tại chùa Hòa Bình cho đến khi viên tịch. Tác phẩm: Phật giáo giáo khoa; Kinh 42 chương; Kinh Di Giáo; Kinh lễ 6 phương; Nghi thức phổ thông; Yết Ma Chỉ Nam, ngài về cõi Phật vào Rằm tháng 11 năm Mậu Thìn (23-12-1988), trụ thế 64 năm,40 hạ lạp, nguyên quán Trực Ninh - Nam Định, trú quán TP. Hồ Chí Minh - xem thêm ở Danh Tăng Việt Nam tập 1.

- Thích Chơn Minh, Thượng tọa, sinh năm 1966, Tiến sĩ Phật học Ấn độ, giảng viên Học viện Phật giáo Việt Nam, trụ trì chùa Huệ Quang - Củ Chi, nguyên quán Trà Vinh, trú quán TP Hồ Chí Minh.

- Thích Chơn Minh, Thượng tọa, thế danh Trần Bạch Mai, ấu niên xuất gia với lão HT Châu viên, được ban pháp húy Hồng Hoa - Chơn Minh, y chỉ với trưởng lão HT Thích Vĩnh Đạt, pháp húy Nhật Chuyên, Ủy viên HĐTS, Trưởng BTS GHPGVN tỉnh Đồng Tháp, Đại biểu HDND tỉnh Đồng Tháp, trụ trì đại trùng tu Phước Lâm Cổ Tự - Sa Đéc, nguyên quán trú quán Sa Đéc - Đồng Tháp.

- Thích Nữ Đàm Minh (1912 -1992), Ni trưởng, pháp danh Tâm Quang, tự Đàm Minh, hiệu Minh Đức, đời 43 tông Lâm Tế, thế hệ thứ 9 pháp phái Liễu Quán. Ni trưởng thế danh Hoàng Thị Bút, sinh năm Nhâm Tý (1912) tại xã Hưng Yên, huyện Hưng Yên, tỉnh Nghệ An. Ni trưởng xuất gia với Sư trưởng Đàm Thanh tại Chùa Diệc, sau đó vào cầu pháp với Hòa thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế, thọ Tỳ kheo ni năm 1944 tại chùa Thiền Tôn. Thời gian này, Ni trưởng đảm nhận chăm lo cho đời sống Ni trường Diệu Đức. Năm 1954, Ni trưởng được Ni bộ Bắc tông Trung phần cử vào trụ trì chùa Bảo Thắng, Hội An. Năm 1962 Ni trưởng lại được cử ra trụ trì chùa Bảo Quang và xây dựng Ni bộ tại Thị xã Đà Nẵng. Ni trưởng thường mở các giới đàn tại Bảo Quang để truyền trao giới pháp cho Chư Ni tu học. Ni trưởng viên tịch ngày 18 tháng 4 năm Nhâm Thân (1992), hưởng thọ 81 tuổi, nhục thân nhập tháp tại đồi Yết-ma, nghĩa trang Môn phái Tường Vân, Huế. Đệ tử Ni trưởng hiện còn các vị: Ni trưởng Thích Nữ Diệu Cảnh, Ni trưởng Thích Nữ Diệu Tâm, Ni trưởng Thích Nữ Diệu Thục, Ni trưởng Thích Nữ Diệu Thuần, Ni trưởng Thích Nữ Diệu Chỉ... Ni trưởng sinh quán Nghệ An, trú quán Đà Nẵng - theo tư liệu THích Như Tịnh sưu khảo.

- Thích Đỗng Minh (1927-2005), Hòa thượng, Luật sư, dòng kệ Lâm Tế Chúc Thánh đời 42, xuất gia với HT Chơn Quang-chùa Khánh Vân - Bình Định, sau đó được vào Phan Rang trao cho HT Huyền Tân làm đệ tử, pháp danh Thị Khai, pháp tự Hạnh Huệ, pháp hiệu Đỗng Minh, thế danh Đỗ Châu Lân. Năm 1946, Chủ tịch hội PG Cứu quốc tỉnh Ninh Thuận. Năm 1950, ngài học tại Tăng học đường Nam phần Trung Việt - Nha Trang. Năm 1957, hoàn tất chương trình đại học PG từ Huế ngài trở vào Nha Trang thành lập hãng vị trai Lá Bồ Đề. Năm 1967, là Chánh đại diện PG miền Khuông Việt. Năm 1968, ngài giữ chức Vụ trưởng Phật học vụ thuộc Tổng vụ Giáo dục GHPGVNTN. Năm 1970, ngài làm Giám đốc PHV Trung phần Nha Trang. Năm 1974, PHV Cao đẳng Hải Đức Nha Trang được thành lập, ngài là Phó viện trưởng điều hành. Sau năm 1975, ngài phải đi an trí 18 tháng. Năm 1983, là thành viên Ban Giáo dục Tăng ni TW GHPGVN. Năm 1991, ngài được mời làm Thành viên Hội đồng phiên dịch Luật tạng PGVN. Năm 1997, ngài được suy tôn vào Hội đồng Chứng minh GHPGVN. Năm 2003, ngài là Phó viện trưởng VNCPHVN. Ngài đã biên dịch các tác phẩm: Tứ Phần Luật (60 quyển); Di Sa Tắc bộ Hòa Hê Ngũ Phần Luật (30 quyển); Căn bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da (50 quyển); Căn bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Bí Sô Ni Tỳ Nại Da (20 quyển); Căn bản Thuyêt Nhất Thiết Hữu Bộ Bách Nhất Yết Ma (10 quyển); Tỳ Ni Nhật Dụng; Trùng Trị Tỳ Ni Sự Nghĩa Tập Yếu (10 quyển); Luật Tỳ Kheo giới bổn Sớ nghĩa (2 quyển); Tỳ ni, Sa di, Oai nghi, Cảnh sách (văn vần); Nghi Truyền giới. Ngài xả báo thân ngày 11 tháng 5 năm Ất Dậu (17-06-2005) thọ 79 năm, 59 hạ lạp, nguyên quán Bình Định, trú quán Khánh Hòa - xem thêm ở Danh Tăng Việt Nam tập 3.

- Thích Đức Minh (1926-2000), Hòa thượng, dòng Lâm Tế Liễu Quán đời 43, thế danh Trần Lai, xuất gia năm 1946 với HT Trừng Chấn Chánh Nhơn - chùa Long Khánh - Qui Nhơn, pháp danh Tâm Lâm, pháp tự Huệ Thường, pháp hiệu Đức Minh. Năm 1952, ngài thọ đại giới tại giới đàn chùa Thiên Bình - Bình Định. Ngài trú xứ chùa Trường Giác và công tác tại PG huyện Tuy Phước. Năm 1954, ngài vào Tăng học đường Nha Trang rồi PHV Hải Đức Nha Trang. Năm 1959, ngài được cử làm Giảng sư kiêm Chánh hội trưởng Tỉnh hội PG Quảng Trị. Năm 1960, ngài chủ trương thiết lập "Hủ gạo Bồ Đề" để lập quỹ trả vốn vay xây dựng trường Bồ Đề Quảng Trị. Năm 1961, ngài về làm Chánh hội trưởng Tỉnh hội PG Khánh Hòa. Năm 1964, GHPGVNTN ra đời, ngài được bổ nhiệm làm Chánh đại diện Tỉnh hội PG Khánh Hòa và chủ trương xây dựng Kim thân Phật tổ trên đồi Trại Thủy. Ngài còn khai sơn chùa Hòa Tân - Cam Ranh, xây dựng Ký nhi viện Phước Điền- Nha Trang và tượng đài Quan Thế Âm trên đèo Rù Rì. Năm 1966, ngài làm Chánh đại diện PG Cam Ranh và khai kiến chùa Từ Vân cùng trường Trung học Bồ Đề Cam Ranh. Năm 1972, ngài lập làng Quảng Đức cho các Phật tử Quảng Trị vào đây lập nghiệp. Năm 1975, ngài trở về Quảng Trị, trú xứ tổ đình Sắc tứ Tịnh Quang và vận động Phật tử đúc một pho tượng Phật và đại hồng chung bằng đồng để phục hưng PG Quảng Trị. Ngài trở về chùa Hòa Tân và viên tịch vào ngày 27 tháng 4 năm Canh Thìn (2000) thọ 75 năm, 48 năm hành đạo, tháp lưu xá lợi của ngài lập ở vườn chùa Long Sơn - Nha Trang, nguyên quán Quy Nhơn - Bình Định, trú quán Cam Ranh - Khánh Hòa - theo Chư tôn Thiền đức & Cư sĩ hữu công Thuận Hóa tập 3.

- Thích Hải Minh (1941-1969), Thượng tọa, xuất gia năm 14 tuổi với HT Thiện Siêu - chùa Từ Đàm - Huế, pháp danh Lệ Tịnh, pháp tự Hải Minh. Thầy vào Nha Trang tu học một thời gian rồi vào tu viện Quảng Hương Già Lam - Gò Vấp tu học. Năm 1968, Thầy thọ đại giới tại giới đàn Phước Huệ do HT Tịnh Khiết làm Đàn đầu truyền giới. Do nhu cầu Phật sự các tỉnh miền Trung, Thượng tọa được cử ra giảng dạy tại trường Bồ Đề Quảng Ngãi. Chiến tranh khốc liệt, Thượng tọa bị trúng đạn pháo kích và tử nạn ngày 07-01-1969, hưởng 28 tuổi, nguyên quán Quảng Trị, trú quán Quảng Ngãi - theo Chư tôn Thiền đức & Cư sĩ hữu công Thuận Hóa tập 3.

- Thích Hạnh Minh (1940-1975), Thượng tọa, xuất gia tại chùa Từ Đàm, pháp danh Nguyên Chi, pháp tự Hạnh Minh. Năm 1963- 1970 hiệu trưởng trường Trung học Bồ Đề Hữu Ngạn - Huế. Năm 1970-1975 Giám học trường Bồ Đề Khuông Việt - Pleiku, nguyên quán Thừa Thiên Huế, trú quán Pleiku - theo Chư tôn Thiền đức & Cư sĩ hữu công Thuận Hóa.

- Thích Hoàng Minh (1916-1991), Hòa thượng, dòng Tế Thượng Thiên Thai Thiền Giáo Tông đời 43, thế danh Nguyễn Châu Thình, xuất gia năm 1928 với HT Pháp Hội - chùa Long Thoàng - Gò Công Đông, pháp danh Tâm Minh, pháp hiệu Thiện Kim. Năm 1933, ngài cầu pháp với HT Pháp Đạt, được pháp danh Tâm Huệ, pháp hiệu Hoàng Minh. Năm 1939, ngài tham học với tổ Huệ Đăng - chùa Thiên Thai - Bà Rịa. Năm 1945, ngài kế thế trụ trì chùa Long Thoàng. Năm 1947, ngài tham gia đoàn thể PG Cứu quốc tỉnh Gò Công với bí danh Minh Châu. Ngài được bầu làm Phó chủ tịch kiêm trưởng ban Hành chánh tỉnh Gò Công. Năm 1952, ngài bị giặc bắt đày sang Lào rồi giam ở Hỏa Lò - Hà Nội. Năm 1955, ngài trở về quê trụ trì chùa Thiêng Liêng. Năm 1957, ngài tham dự khóa "Như Lai Sứ Giả" ở chùa Pháp Hội. Năm 1971, ngài xây dựng được 3 ngôi chùa Linh Châu, Linh Sơn,Thiên Trường ở Gò Công. Năm 1987, ngài được cung thỉnh vào Thành viên HĐCM TW GHPGVN,ngài xả báo thân ngày mồng 2 tháng 5 năm Tân Mùi (13-06-1991) thọ 76 năm, 56 mùa hạ, nguyên quán trú quán Gò Công - xem thêm ở Danh Tăng Việt Nam tập 2.

- Lê Hoàng Minh, Cư sĩ, sơn môn Lục Hòa Tăng & Lục Hòa Phật tử, có công lớn với Giáo hội này. Năm 1947, ông và Yết ma Pháp Long- chùa Thiên Quang - Hóc Môn đứng ra vận động thành lập hội PG Cứu quốc Nam bộ, ông làm Ủy viên Thủ quỹ của hội, xuất bản tờ Tinh Tấn, tòa soạn đặt tại chùa Bửu Lâm, cơ quan hội PG Cứu quốc Nam bộ đặt tại chùa Ô Môi - Đồng Tháp Mười - theo Biên niên sử PG Sài Gòn Gia Định.

- Thích Huệ Minh (1861-1939), Hòa thượng, dòng Lâm Tế Liễu Quán đời 41, pháp danh Thanh Thái, pháp tự Chánh Sắc, pháp hiệu Huệ Minh, là đệ tử ngài Hải Thiệu - Cương Kỷ, năm 1902, ngài trụ trì chùa Thánh Duyên, năm 1911 trụ trì chùa Từ Hiếu, năm 1929 được phong Tăng cang chùa Thánh Duyên, năm 1937, được phong Tăng cang hai chùa Diệu Đế và Từ Hiếu, nguyên quán trú quán Thừa Thiên Huế - theo Chư tôn Thiền đức & Cư sĩ hữu công Thuận Hóa.

- Thích Huệ Minh (1892-1982), Hòa thượng, thế danh Lê Trừng Tấn, ấu niên quy y tam bảo với tổ Minh Thông Hải Huệ - tổ đình Bửu Lâm - Cao Lãnh. Năm 12 tuổi, xuất gia HT Thích Thanh Nguyên, trụ trì Long An Cổ Tự - Sa Đéc. Năm 1925, ngài cầu pháp với tổ Đạt Thới Chánh Thành - tổ đình Vạn An - Sa Đéc. Năm 1926, trụ trì Vĩnh Hưng Tự- Sóc Trăng. Năm 1943, được cung thỉnh Đường đầu Hòa thượng tại đàn giới chùa Linh Thạnh - Cần Thơ. Năm 1951, Tăng trưởng Giáo hội Tăng già Nam Việt Tây Nam bộ. Năm 1952, Chứng minh đạo sư Chi hội Phật học Sóc Trăng. Cuối năm 1963, Phó Tăng thống Giáo hội Phật giáo Cổ sơn môn, nhiệm kỳ 2 được suy tôn ngôi vị Tăng thống Giáo hội Phật giáo Cổ sơn môn (1966-1980). Năm 1971, Chứng minh đạo sư Đại giới đàn tại Linh Sơn Cổ Tự - Sài gòn. Ngài viên tịch vào giờ Ngọ, ngày mồng 10 tháng 2 năm Nhâm Tuất (05-03-1982), thọ 90 xuân, nguyên quán làng Mỹ Thọ - Cao Lãnh - Đồng Tháp, trú quán Sóc Trăng - theo Thích Vân Phong biên khảo.

- Thích Huệ Minh, Hòa thượng, Phó ban Nghi lễ TW GHPGVN, chủ tịch hội Đồng hương Bình Định, trụ trì chùa Giác Uyển - Phú Nhuận, nguyên quán Bình Định, trú quán TP Hồ Chí Minh.

- Thích Huệ Minh, Hòa thượng, sinh năm 1951, thế danh Huỳnh Ngọc Anh, học tăng Phật học viện Thiên Tôn, Trưởng BTS GHPGVN tỉnh Tiền Giang, hiệu trưởng trường Trung cấp Phật học Tiền Giang, trụ trì chùa Vĩnh Tràng và chùa Tân Thạnh - Mỹ Tho, nguyên quán trú quán Tiền Giang.

- Thích Liễu Minh (1934 -2015), Hòa thượng, Ủy viên Công cán, phụ tá HT Viện trưởng Viện Hóa Đạo Thích Thiện Hoa, dòng Lâm Tế Chúc Thánh đời 42, xuất gia với HT Như Từ Tâm Đạt - chùa Thiện Bình - Bình Định, pháp danh Thị Huyền, pháp tự Liễu Minh, pháp hiệu Trí Hải, thế danh Lê Văn Hiền, học tăng Phật học viện Nha Trang. Năm 1956, học Tăng Phật học đường Nam Việt, trú xứ chùa Ấn Quang. Năm 1960, Giám đốc PHĐ Giác Sanh. Năm 1961-1962, quản lý PHĐ chùa Phật Ân - Mỹ Tho. Năm 1963, ngài tham gia tích cực trong phong trào đấu tranh của PG chống chế độ độc tài Ngô Đình Diệm. Năm 1964, ngài là Giảng sư kiêm phụ tá HT Viện trưởng Thiện Hoa và là phát ngôn viên của Giáo hội PGVNTN. Năm 1988, ngài về trụ trì chùa Nhơn Phước ở Tam Hiệp - Mỹ Tho, cùng trú xứ chùa Thanh Quang - Tiền Giang, ngài xả báo thân vào mồng 8 tháng 9 năm Ất Mùi (20-10-2015) thọ 81 năm, 58 hạ lạp, nguyên quán Bình Định, trú quán Tiền Giang.

- Thích Như Minh (1915-1982), Đại sư, pháp danh Như Minh, pháp tự Giải Chánh, pháp hiệu Tánh Tịnh, đời 41 tông Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài thế danh Huỳnh Công Thông, sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Khuê Bắc, Hòa Hải, Hòa Vang. Ngài xuất gia với Hòa thượng Thiện Trung tại chùa Tam Thai. Ngài là học Tăng PHĐ Báo Quốc, cùng khóa với các Hòa thượng Thiện Hoa, Thiện Hòa... Ngài là một học tăng ưu tú nên được Tổng hội Phật giáo Trung Phần bổ nhiệm trụ trì chùa Từ Đàm vào năm 1939. Đến năm 1941 vì gặp nghịch duyên nên ngài về ngụ tại chùa Từ Tôn - Đà Nẵng. Ngài chuyên giảng dạy kinh luật cho các khóa hạ tại đây. Đảm nhận Thư ký GH Tăng già Quảng Nam Đà Nẵng năm 1954, Đặc ủy Tăng sự GHPGVNTN thị xã Đà Nẵng. Năm 1968, ngài khai sơn chùa Liên Hoa - Đà Nẵng (chùa nay không còn). Ngài viên tịch vào ngày 20 tháng 5 năm Nhâm Tuất (1982), thọ 72 tuổi. Đệ tử ngài hiện chỉ còn HT.Thích Thị Nguyện. Ngài nguyên quán trú quán tại Đà Nẵng - theo Thích Như Tịnh sưu khảo.

- Thích Nhựt Minh (1908-1993), Hòa thượng, khai sơn chùa Đại Giác-Sóc Trăng, khai sơn tu viện Phật Tích Tòng Lâm - Long Thành, trụ trì Linh Sơn cổ tự - quận Nhất, Hội chủ hội Linh Sơn Phật học, nguyên quán Bạc Liêu, trú quán TP Hồ Chí Minh - xem thêm ở Danh Tăng Việt Nam tập 1.

- Pháp Minh (1918-1993), Hòa thượng, dịch giả, tác gia, trưởng lão hệ phái Nam Tông Việt Nam, thế danh Nguyễn Văn Long, xuất gia năm 1965 với HT Bửu Chơn - chùa Phổ Minh - Gò Vấp, pháp danh Vijjàdhamma Mahàthera. Năm 1968, thọ đại giới tại chùa Pháp Bảo - Mỹ Tho do ngài Giới Nghiêm là thầy Tế độ. Năm 1969, ngài trú xứ chùa Bửu Quang - Gò Dưa. Năm 1974, trụ xứ Thích Ca Phật Đài - Vũng Tàu. Năm 1979, ngài trở về chùa Bửu Quang lập cốc Bình Thủy để an cư và viết sách. Tác phẩm: Chú giải Kinh Pháp Cú; Cậu Kim Hòa; Đại đức Hộ Mù; Tỳ kheo Korambì, ngài chuyên tu hạnh Đầu đà khất thực và thiền định, ngài tịch diệt vào ngày mồng 5 tháng Giêng năm Quý Dậu (1993) thọ 75 năm, 28 tuổi đạo, nguyên quán Long Đất - Bà Rịa, trú quán Thủ Đức - Gia Định - xem thêm ở Danh Tăng Việt Nam tập 2.

- Thích Phổ Minh (1867-1934), Hòa thượng, pháp danh Chơn Thể, pháp tự Đạo Viên, pháp hiệu Phổ Minh, đời thứ 40 tông Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài thế danh Lê Văn Chạy, sinh năm Đinh Mão (1867) tại xã Gia Phước, huyện Lễ Dương, phủ Thăng Bình, Quảng Nam. Ngài xuất gia với tổ Vĩnh Gia tại tổ đình Phước Lâm, Hội An. Năm 1918, ngài kế thừa trụ trì đời thứ 7 tổ đình Phước Lâm sau khi bổn sư viên tịch. Năm 1920, ngài được cung thỉnh làm Đệ nhất Tôn chứng giới đàn Phước Quang, Quảng Ngãi, Năm 1928, ngài làm Yết-ma giới đàn Từ Vân, Đà Nẵng. Ngài có công xây dựng Nghĩa Trũng Từ trước chùa Phước Lâm. Ngài viên tịch ngày 23 tháng 2 năm Giáp Tuất (1934), thọ 68 tuổi. Ngài nguyên và trú quán tại Quảng Nam - theo Thích Như Tịnh sưu khảo.

- Thích Phước Minh (1922-2002), Hòa thượng, dòng Lâm Tế Chánh Tông đời 41, thế danh Đặng Ngọc Châu, xuất gia lúc 7 tuổi với HT Trí Thới - chùa Long Quang - Bình Thủy - Cần Thơ. Sau đó được bổn sư gởi theo học trường Gia giáo chùa Phước Long - Nha Mân - Sa Đéc do HT Bửu Chung giảng dạy. Năm 1942, ngài thọ đại giới tại giới đàn chùa Phước Long do HT Bửu Chung làm Đàn đầu truyền giới. Năm 1945, ngài tham gia phong trào Thanh niên Tiền phong và PG Cứu quốc. Năm 1952, ngài ra miền Trung tham học giáo lý tại chùa Bửu Liên - Bình Định. Năm 1953, ngài ra Hải Phòng học Y phương minh, nhưng đến 1954 , ngài phải trở về Nam vì chiến tranh, nhưng rồi đến chùa Long Quang của ngài cũng phải tiêu thổ kháng chiến. Năm 1962, ngài về hành đạo tại chùa Bửu Liên (chùa Cây Bàng) - Cần Thơ. Năm 1964-1975, ngài làm Ủy viên Nghi lễ GHPGVNTN tỉnh Phong Dinh (Cần Thơ). Năm 1981, ngài được cử làm Ủy viên HĐTS GHPGVN. Năm 1983, ngài là Trưởng BTS PG tỉnh Hậu Giang - Cần Thơ. Năm 1989, ngài trụ trì chùa Bửu Liên và Phó chủ tịch UBMTTQ tỉnh Cần Thơ. Năm 1997, ngài được suy tôn Thành viên HĐCM GHPGVN. Năm 2002, ngài là Chứng minh tỉnh hội PG TP Cần Thơ. Ngài còn được cung thỉnh làm giới sư các giới đàn trong và ngoài tỉnh. Ngài viên tịch ngày mồng 6 tháng 4 năm Nhâm Ngọ (17-05-2002) thọ 81 năm, 50 hạ lạp, nguyên quán trú quán Châu Thành - Cần Thơ - theo tư liệu báo Giác Ngộ số 122- năm 2002.

- Thích Quang Minh (1879-1977), Hòa thượng, pháp danh Chơn Nhật, pháp tự Đạo Chiếu, pháp hiệu Quang Minh, đời thứ 40 tông Lâm Tế, thế hệ thứ 7 pháp phái Chúc Thánh. Ngài thế danh Lê Hợi, sinh năm Kỷ Mão (1879) tại làng Trung Phường, xã Duy Hải, huyện Duy Xuyên, Quảng Nam. Ngài xuất gia với Hòa thượng Phổ Bảo tại tổ đình Chúc Thánh. Năm 1928 làm Chánh chủ hương giới đàn Từ Vân; Năm 1934 được cử làm trụ trì tổ đình Chúc Thánh. Thời gian này ngài phát tâm vận động khắc ván bộ Phổ Môn xuất tượng rất có giá trị về nghệ thuật điêu khắc. Ngài vào Nam lập chùa Chúc Thọ tại Xóm Thuốc, Gò Vấp. Năm 1950, người Pháp lập sân bay Tân Sơn Nhất nên chùa bị giải tỏa. Từ đó ngài về ngụ tại chùa Bửu Đà và viên tịch cuối năm 1977, thọ 98 tuổi. Ngài nguyên quán Quảng Nam, trú quán TP.Hồ Chí Minh - theo Thích Như Tịnh sưu khảo.

- Thích Quảng Minh, Thượng tọa, giảng sư, được ban Quản trị hội Phật học Nam Việt cung thỉnh làm Hội trưởng, năm 1955, ngài sang Nhật du học, thỉnh về bộ Đại chính Tân tu Đại tạng kinh cho hội PHNV làm pháp bảo. Học xong ngài ở lại Nhật bản không trở về nước, nguyên quán chưa rõ, trú quán Nhật Bản.

- Như Thuật-Tâm Minh (1847-?), Hòa thượng, pháp hiệu Tâm Minh, dòng Lâm Tế Liễu Quán, đệ tử ngài Hải Thuận - Diệu Giác, trụ trì chùa Ngọc Sơn năm 1899, nguyên quán Quảng Trị, trú quán Thừa Thiên Huế - theo Chư tôn Thiền đức&Cư sĩ tiền bối hữu công PG Thuận Hóa.

- Thích Tâm Minh (1910-1997), Hòa thượng, thế danh Đặng Văn Tiến, xuất gia năm 1921 với tổ Thông Tụng - chùa Liên Phái - Hà Nội, pháp danh Tâm Minh, pháp tự Thông Đạt. Năm 1944, ngài trụ trì chùa Ông Đình - Khoái Châu - Hưng Yên. Năm 1947, ngài tham gia Ban Chấp hành hội PG Cứu quốc huyện Khoái Châu. Năm 1965, ngài là Chủ tịch MTTQ xã Ông Đình. Năm 1968, ngài trụ trì Tòng lâm Côn Sơn và chùa Tỉnh hội PG Đông Thuần. Năm 1981, ngài là Thành viên HĐTS GHPGVN kiêm Phó BTS GHPGVN tỉnh Hải Hưng, ngài xả báo thân ngày mồng 8 tháng Giêng năm Đinh Sửu (14-01-1997) thọ 87 năm, 50 tuổi đạo, nguyên quán Hà Nội, trú quán Hải Dương - xem thêm ở Danh Tăng Việt Nam tập 2.

- Thích Tâm Minh, Thượng tọa, Tiến sĩ Phật hoc Ấn độ, giảng viên Học viện Phật giáo Việt Nam, nguyên quán Thừa Thiên Huế, trú quán Thiền viện Vạn Hạnh, TP Hồ Chí Minh.

- Thích Trúc Thái Minh, Đại đức, tục Vũ Minh Hiếu sinh năm 1967, quê huyện Lương Tài, Tỉnh Bắc Ninh, giảng viên của trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội, công tác ở Viện Nghiên cứu Chế Tạo Máy của Bộ Công nghiệp. Xuất gia tu học theo Thiền phái Trúc Lâm, đệ tử Thiền sư Thích Thanh Từ, trụ trì chùa Ba Vàng (Bảo Quang Tự), Phường Quang Trung - thành phố Uông Bí - tỉnh Quảng Ninh, Phó trưởng ban Thông tin Truyền thông Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phó Chủ tịch TƯ Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam phụ trách công tác vận động xã hội. Năm 2014, được Đại học Kỷ lục Thế giới (WRU) trao Bằng Tiến sĩ danh dự với luận án "Gìn giữ và phát huy giá trị nhân văn về sự tri ân trong lòng đại chúng" - theo Thích Vân Phong biên khảo.

- Thích Thiện Minh (1922-1978), Hòa thượng, danh tăng pháp nạn 1963, đệ tử HT Giác Nhiên - chùa Thuyền Tôn, pháp danh Tâm Thị, pháp tự Thiện Minh, pháp hiệu Trí Nghiễm, thế danh Đỗ Xuân Hàng. Năm 1942 học tăng PHĐ Tây Thiên và Báo Quốc. Năm 1951, chủ tọa các phiên đại hội thành lập Giáo hội Tăng già toàn quốc. Năm 1959, là Trị sự trưởng Tổng hội PG Trung phần. Năm 1963, là Ban lãnh đạo Ủy ban Liên phái Bảo vệ PG, ngài có khả năng biện tài vô ngại nên được đề cử chủ trì các cuộc đối thoại với chính quyền. Khi GHPGVNTN thành lập năm 1964, ngài là Phó viện trưởng Viện Hóa Đạo, kiêm Tổng vụ trưởng Tổng vụ Thanh niên. Năm 1973, ngài làm Quyền Viện trưởng Viện Hóa Đạo. Năm 1976, ngài làm Cố vấn Ban chỉ đạo Viện Hóa Đạo, ngài tịch năm 1978 nơi trại cải tạo, trụ thế 56 năm với 36 năm hành đạo, chùa Thuyền Tôn - Huế lập tháp vọng thờ và ngày tưởng niệm là 15 tháng 9 âm lịch, ngài nguyên quán Quảng Trị, trú quán TP Hồ Chí Minh - xem thêm ở Danh Tăng Việt Nam tập 1

- Thích Thiện Minh (1920-1992), Hòa thượng, dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 40, thế danh Phạm Văn Giáo, xuất gia năm 1952 với HT Quảng Hiếu Thiện Tồn - chùa Đức Long, pháp danh Thục Hải, pháp hiệu Thiện Minh. Năm 1962, ngài thọ đại giới tại chùa Hội Long - Long An do Hòa thượng Hoằng Đức làm Đàn đầu truyền giới. Sau khi vân du học đạo nhiều nơi, ngài về trụ trì chùa Linh Quang - Sa Đéc và phát triển nền y học dân tộc trị bệnh cứu đời. Năm 1973, ngài giữ chức Đặc ủy Tăng sự GHPGVNTN tỉnh Sa Đéc. Năm 1982, ngài làm Ủy viên Giáo dục Tăng ni BTS PG tỉnh Đồng Tháp. Năm 1987, ngài là Phó BTS kiêm Ủy viên Hướng dẫn Nam nũ Phật tử tỉnh Đồng Tháp. Năm 1991, ngài làm Trưởng BTS GHPGVN tỉnh Đồng Tháp. Cùng năm, ngài được cung thỉnh làm Đàn đầu Hòa thượng trong giới đàn chùa Phước Hưng, ngài xả báo thân ngày 14 tháng 3 năm Nhân Thân (16-04- 1992) thọ 73 năm, 31 hạ lạp, tháp lập trong khuôn viên chùa Linh Quang, nguyên quán Long Xuyên, trú quán Đồng Tháp - xem thêm ở Danh Tăng Việt Nam tập 3.

- Thích Thiện Minh, Hòa thượng, sinh năm 1945, ủy viện BTS GHPGVN TP Hồ Chí Minh, trưởng tông phong Kỳ Quang, Phó ban Tăng sự BTS GHPGVN TP Hồ Chí Minh, Chánh đại diện BTS GHPGVN quận 2, trụ trì chùa Kỳ Quang 2, nguyên quán Bến Tre, trú quán TP Hồ Chí Minh.

- Tỳ kheo Thiện Minh, Đại đức, Tiến sĩ, hệ phái PG Nam Tông Việt Nam, trụ trì chùa Bửu Quang - Thủ Đức, tác phẩm: Thiền quán - tiếng chuông vượt thời gian (dịch), nguyên quán trú quán TP Hồ Chí Minh.

- Tịnh Minh, Cư sĩ, giáo sư, NNC Phật học, tên thật là Đặng Ngọc Chức, nguyên là tu sĩ PG pháp danh Tịnh Minh, sinh năm 1947, nguyên Hiệu trưởng trường Trung học Bồ Đề Ninh Hòa - Khánh Hòa. Nguyên giảng viên Phân khoa Phật học - đại học Vạn Hạnh- Sài Gòn. Nguyên giảng viên Anh ngữ các trường và Chánh Văn phòng Học viện PGVN tại TP Hồ Chí Minh. Tác phẩm đã ấn hành: Từng giọt nắng hồng I-II-III (truyện tích kinh Pháp Cú - soạn dịch Anh Việt); Thi kệ Pháp Cú Kinh (song ngữ Anh Việt); Cuộc đời đức Phật (biên dịch Anh Việt); Đức Phật và Giáo pháp của Ngài (song ngữ Anh Việt); Nguyên tắc diễn giảng trước thính chúng (biên soạn); Minh Tâm Bảo Giám tinh tuyển (song ngữ Hán Việt); Cam Lồ Pháp Vũ - Đặc trưng trích từ Đại tạng Cao Ly (hiệu đính). Ông bị tai nạn giao thông và mất vào ngày 12 tháng 11 năm Quý Tỵ (14- 12-2013), thọ 67 tuổi, nguyên quán Phù Cát - Bình Định, trú quán TP Hồ Chí Minh - theo trang nhà www. quangduc.com

- Thích Trí Minh (1904-1971), Hòa thượng, pháp danh Như Quang, pháp tự Giải Chiếu, pháp hiệu Trí Minh. đời 41 tông Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài thế danh Đinh Văn Nhiên, sinh năm Giáp Thìn (1904) tại xã Điện Tiến, Điện Bàn, Quảng Nam. Ngài xuất gia với Hòa thượng Thiện Quả tại chùa Chúc Thánh. Năm 1950 ngài là Hội trưởng Hội Phật học Quảng Nam, trụ trì chùa Tỉnh hội Quảng Nam (Pháp Bảo). Năm 1963, trong phong trào đấu tranh Phật giáo, Ngài nhiều lần tuyệt thức trước tòa hành chánh Quảng Nam. Ngài được thỉnh làm Cố vấn GHPGVNTN tỉnh Quảng Nam năm 1964. Ngài viên tịch ngày mồng 9 tháng 3 năm Tân Hợi (1971), thọ 68 tuổi, nhập tháp tại chùa Chúc Thánh. Đệ tử có các vị thành danh như: Cố HT.Thích Hạnh Tâm; Cố HT.Thích Hạnh Hải; HT.Thích Hạnh Phương (Kiến Tánh)... Ngài nguyên và trú quán Quảng Nam - theo Thích Như Tịnh sưu khảo.

- Thích Trí Minh (1921-2003), Hòa thượng, thế danh Đặng Ngọc Chấn, xuất gia năm 18 tuổi với HT Chánh Nhơn - chùa Long Khánh - Quy Nhơn - Bình Định, pháp danh Tâm Hy, pháp tự Giải Không, pháp hiệu Huệ Định. Năm 1942, ngài thọ Sa di tại giới đàn chùa Hưng Khánh - Tuy Phong - Bình Định. Ngài tham học trải qua 5 PHV: Lưỡng Xuyên - Trà Vinh, Phật Quang học viện - Trà Ôn - Cần Thơ, Liên Hải - Bình Chánh, Báo Quốc - Huế, Từ Đàm - Thừa Thiên. Năm 1946, ngài thọ đại giới tại giới đàn chùa Kim Huê- Sa Đéc do HT Chánh Quả làm Đàn đầu truyền giới. Trong năm này, ngài xin y chỉ và được HT Trí Tịnh ban pháp hiệu là Trí Minh. Năm 1952, ngài bặt dứt ngoại duyên, ẩn tu tịnh nghiệp tại chùa Mai Sơn - Phú Lâm - Gia Định. Dù ẩn tích mai danh, ngài không quên dịch thuật những kinh sách cần yếu để tu hành và truyền bá lưu hành, dịch phẩm của ngài gồm: Oai Đức Niệm Phật; Tỳ Ni Luận Giải; Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn... Ba năm cuối đời, theo lời cầu thỉnh của HT trụ trì chùa Từ Quang - Thủ Đức, ngài về tịnh dưỡng tại ngôi chùa này. Ngài xả báo thân ngày 14 tháng Giêng năm Quý Mùi (14-02-2003) thọ 83 năm, 65 hạ lạp, nguyên quán Bình Định, trú quán Thủ Đức - TP Hồ Chí Minh - theo trang nhà buddha home

- Liễu Triệt-Từ Minh (?-1882), Hòa thượng, đệ tử ngài Tế Chánh - Bổn Giác, dòng kệ Vạn Phong Thời Ủy đời 37của tổ Nguyên Thiều, được pháp danh Liễu Triệt, trụ trì chùa Quốc Ân, Tăng cang chùa Giác Hoàng, khai sơn chùa Viên Quang, tức chùa Linh Quang sau này, nguyên quán trú quán Thừa Hiên Huế - theo Chư tôn Thiền đức & Cư sĩ hữu công PG Thuận Hóa.

- Thích Viên Minh, thế danh Huỳnh Hồng Diệp, Hòa thượng, trụ trì Hòa Thạnh Tự (chùa Cây Mít) - xã Nhơn Hưng - huyện Tịnh Biên - tỉnh An Giang, Hội viên Thường trợ của Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học vào những thập niên 1930. Thời gian ngài đương nhiệm phương trượng trụ trì, năm 1921, Cư sĩ Nhật Sắc - Thiện Thành (cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc thân sinh Hồ Chủ tịch) thân lâm chùa Hòa Thạnh bốc thuốc và truyền bá tư tưởng cách mạng được 2 năm. Đến năm 1923, Cụ Phó bảng đi nơi khác tiếp tục hoạt động cách mạng (Bia xây dựng tháng 12 năm 1989), nguyên quán không rõ - theo Thích Vân Phong biên khảo.

- Thích Viên Minh (1888-1962), Hòa thượng, Trưởng Lão, pháp danh Chơn Tâm, pháp tự Đạo Tánh, pháp hiệu Viên Minh, đời 40 tông Lâm Tế, thế hệ thứ 7 pháp phái Chúc Thánh. Ngài thế danh Trần Văn Thiện, sinh năm Mậu Tý (1888) tại xã Lộc An, Ái Nghĩa, Đại Lộc. Xuất gia với Hòa thượng Từ Nhẫn tại chùa Tam Thai, tu học tại tổ đình Tam Thai và tổ đình Phước Lâm. Cầu pháp đệ tử với Hòa thượng Phổ Minh tại chùa Phước Lâm. Năm 1930, ngài vào Ninh Thuận khai sơn chùa Sùng Đức tại thôn Tân Xuân, phường Đông Hải, thị xã Phan Rang và hành đạo tại đây tới cuối đời. Ngài viên tịch ngày 26 tháng 3 năm Nhâm Dần (1962), thọ 75 tuổi. Ngài nguyên quán Quảng Nam, trú quán Phan Rang - theo Thích Như Tịnh sưu khảo.

- Thích Viên Minh (1922-2014), Hòa thượng, pháp danh Không Thiên, tự Trí Mẫn, hiệu Viên Minh đời 41 tông Lâm Tế, thế hệ thứ 20 pháp phái Tổ Định Tuyết Phong. Ngài thế danh Nguyễn Quang Vinh, sinh năm Nhâm Tuất (1922) tại làng Trung Kiên, tổng Bích La, phủ Triệu Phong, sau chuyển về làng Đông Dương, xã Hải Dương, huyện Hải Lăng, Quảng Trị. Xuất gia năm 9 tuổi với Hòa thượng Thích Bích Phong tại chùa Quy Thiện, Huế. Học tăng PHĐ Báo Quốc, thọ Tỳ kheo năm 1949 tại Báo Quốc. Sau đó Ngài vào học Đại học văn khoa tại Sài Gòn. Năm 1964, Ngài về Đà Nẵng đảm nhận trú trì chùa Sơn Trà và An Hải, đồng thời dạy tại trương Bồ Đề Đà Nẵng. Năm 1968, Ngài lập tịnh thất Nam Hải để tịnh tu và giảng dạy. Sau năm 1997, Ngài đảm nhận Phó Ban trị sự kiêm Trưởng Ban Tăng sự GHPGVN TP. Đà Nẵng và là thành viên HĐCMGHPGVN. Năm 2008, Ngài thiên di chùa Nam Hải về tại phường Hòa Hiệp Bắc, quận Liên Chiểu. Cũng trong năm này Ngài được cung thỉnh làm Đàn đầu Đại giới đàn Trí Thủ tổ chức tại chùa Phổ Đà, Đà Nẵng. Hòa thượng viên tịch ngày 5 tháng 9 năm Giáp Ngọ (2014), hưởng thọ 93 tuổi. Ngài sinh quán Quảng Trị, trú quán Đà Nẵng - theo tư liệu Thích Như Tịnh sưu khảo.

- Châu Mum (1921-2002), Hòa thượng, trưởng lão hệ phái PG Nam Tông Khmer, pháp danh Chôtlappanha, xuất gia năm 1941 tại chùa Tầm Du với Sư cả Ny. Năm 1942, ngài thọ Tỳ kheo giới tại chùa Bông Sa do Sư cả Noông làm Hòa thượng tế độ. Năm 1948, ngài được phong Yết ma A xà lê và được cử làm trụ trì chùa Tầm Du. Cùng năm này, ngài tham gia cách mạng đấu tranh trong phong trào Việt Minh giải phóng dân tộc. Năm 1972, ngài dẫn đầu PG Khmer tỉnh Sóc Trăng biểu tình đòi thả các Sư sãi bị chính quyền bắt giữ. Năm 1980, ngài đại diện Sư sãi Khmer tham dự đại hội Thống nhất PGVN tại Hà Nội, ngài được mời giữ chức Phó chủ tịch HĐTS GHPGVN. Ngài được tặng thưởng: - Huân chương Kháng chiến hạng I; - Huân chương Khánh chiến hạng II; - Huy chương Vì sự nghiệp Đại đoàn kết dân tộc; - Huy chương vì sự phát triển dân tộc miền núi; Các bằng khen, giấy khen của Trung ương và địa phương. Ngài xả báo thân ngày 18 tháng 10 năm Nhâm Ngọ (22-11-2002) thọ 80 năm, 60 hạ lạp, nguyên quán trú quán Sóc Trăng - xem thêm ở Danh Tăng Việt Nam tập 3.

- Thích Thiện Mỹ (1940-1963), Đại đức, Thánh tử đạo pháp nạn 1963, thế danh Hoàng Miều, xuất gia năm 1956 tại chùa làng và theo học ở PHĐ chùa Thập Tháp và Long Khánh. Năm 1960, du phương học đạo ở Cao nguyên Đăk Lăk, Lâm Viên rồi dừng chân ở Đà Lạt. Trong pháp nạn PG năm 1963, ngài tự chặt ngón tay trong cuộc biểu tình phản đối chính quyền không thực thi bản thông báo chung đã ký với Ủy ban Liên phái PG. Sau đó, ngài về Sài Gòn tự thiêu trước nhà thờ Đức Bà vào lúc 10 giờ sáng ngày 27-10-1963, nguyên quán Bình Định, trú quán chùa Vạn Thọ - Sài Gòn - xem thêm ở Danh Tăng Việt Nam tập 2.

- Lê Văn Mỹ (1902-1969), Cư sĩ, thánh tử đạo, pháp danh Tâm Mậu, tự Chơn Thiện, sinh năm 1902 tại thôn Lâm Lang, xã Cam Hiếu, quận Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị, gia đình tín ngưỡng Tam bảo nhiều đời. Năm 1926, Cư sĩ quyết định lập nghiệp tại Huế để có điều kiện gần gũi Tam bảo. Năm 1932, Cư sĩ tham gia phong trào học Phật của Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám phát động. Năm 1945, vua Bảo Đại thoái vị, kinh đô Huế rối ren, Cư sĩ đóng cửa tu niệm tịnh độ tại nhà. Năm 1950, Phật giáo lại khởi sắc do phong trào chấn hưng lan tỏa. Huế lại tưng bừng khi PG 3 miền tập họp chuẩn bị hội nghị thành lập Tổng hội PGVN. Cư sĩ quyết định đến chùa Thiền Tôn quy y với HT Giác Tiên, pháp danh Tâm Mậu và phát nguyện trường trai không gián đoạn. Năm 1963, lá cờ PG bị chính quyền triệt hạ ngay tại Huế, cuộc đấu tranh của PG bùng lên, máu lửa - xương thịt của Tăng ni, Phật tử đổ xuống, Cư sĩ đã góp phần cho cuộc đấu tranh của PG đồ đi đến thắng lợi và sau đó chuyển vào Đà Nẵng sinh sống. Năm 1969, lại một lần nữa PG lại rơi vào chia rẽ sâu sắc bởi bàn tay giật dây của chính quyền, nhiều lãnh đạo Giáo hội bị bắt, Phật tử bị truy tố, chụp mũ... Cư sĩ đã phát nguyện tự thiêu trước bàn thờ Phật tại gia, lúc 05 giờ sáng ngày mồng Một Tết - ngày vía Phật Di Lặc, để cầu nguyện cho đạo pháp trường tồn và đất nước sớm có được hòa bình, Cư sĩ thọ 67 tuổi đời, nguyên quán Quảng Trị, trú quán Đà Nẵng. Cư sĩ được GHPGVNTN tấn phong Thánh tử đạo năm 1967 - theo Dương Kinh Thành biên khảo.

- Phạm Thế Mỹ (1930-2009), Nhạc sĩ. Ông sinh tại Đập Đá, An Nhơn, Bình Định; em ruột của nhà văn Phạm Văn Ký và nhà thơ Phạm Hổ. Năm 16 tuổi (sau 2 năm chơi guitar), ông vinh dự nhận giải thưởng Phạm Văn Đồng. Năm 1950, ông làm phóng viên báo Quân đội nhân dân. Tác phẩm đầu tay của ông là Nắng lên xóm nghèo. Năm 1959, ông học Trường Quốc gia Âm nhạc Sài Gòn. Sau đó, ông dạy học ở Đà Nẵng. Ông sáng tác hàng trăm ca khúc được công chúng yêu thích và đã xuất bản các tập ca khúc: Hòa bình ơi, hãy đến (1969); Trái tim Việt Nam (1971); Cho trái đất này vui (1990); Trường ca Phạm Thế Mỹ (1996); Trang sử mới (Sinh viên Phật tử xuất bản tại Pháp)... Ngoài ra, ông còn viết nhạc vũ kịch, như vũ kịch: Kim Trọng - Thúy Kiều (1962-1966); Tiểu ca kịch: Hoa bướm và thiếu nữ (1960), Nước mắt người yêu (1961); Nhạc kịch: Sắc lụa Trữ La (1958-1960), Tiếng hát dậy từ lòng đất,Miếu âm hồn. Pháp nạn 1965-1966, ông bị bắt giam. Trong thời gian này, ông sáng tác nhạc phẩm bất hủ “Bông hồng cài áo” (lấy ý bài tản văn Bông hồng cài áo của Thiền sư Thích Nhất Hạnh). Từ năm 1970-1975, ông là Trưởng phòng Văn - Mỹ - Nghệ của Viện Đại học Vạn Hạnh. Trước 1975, dòng nhạc Phạm Thế Mỹ mang nội dung Hòa bình, Đạo pháp, Dân tộc; về sau nhạc của ông hướng về “Tình người”. Nhìn chung, “Nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ - Linh hồn của những ca khúc, trường ca Phật giáo và Hòa bình, Dân tộc” - tiêu đề bài viết của Trần Tuyết Hoa, đăng trên Giao điểm online, ngày 1.11.2007. Ông mất ngày 16.1.2009, sau một thời gian dài bị bệnh; nguyên quán Bình Định, trú quán TPHCM.

 

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Những áng mây trắng - Thơ: Hoang Phong - Diễn ngâm: Hồng Vân
    • Mẹ ơi - Thơ: Thích Phước Hạnh - Nhạc: Hoàng Lan
    • Khúc ca Tịnh Độ - Lời: Thích Phước Hạnh - Nhạc: An Sơn
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 86
    • Số lượt truy cập : 6573343