Thông tin

NHỮNG ĐIỀU CẦN THIẾT TRONG VIỆC

ỨNG DỤNG NGHI LỄ PHẬT GIÁO TRONG CÁC LỄ HỘI

 

Tỳ kheo THÍCH ĐỒNG BỔN

 

Trong lần hội thảo về nghi lễ Phật giáo toàn quốc lần III này, tôi được Ban Nghi lễ Trung ương mời viết bài. Tôi xin chọn chủ đề thứ 10 mà Ban tổ chức đã gợi ý để viết lên những dòng cảm nghĩ của mình, góp phần bổ sung cho ngành Nghi lễ Phật giáo có một định hướng chặt chẽ hơn khi thực hiện các nghi thức Phật giáo trong các lễ hội đang có ở Việt Nam.

Theo tôi, một khoa nghi, nghi lễ hay một lễ hội, ta cần định hình ý nghĩa thực tiễn của công việc đó cần có tính tích cực cho cộng đồng, và nghi lễ đó phải thực sự là việc tiếp cận tâm linh, tâm hồn của con người hiện hữu ở xã hội. Muốn được như thế, thì mỗi một nghi lễ hay lễ hội được coi là hoàn chỉnh, theo tôi cần phải hội đủ 6 đặc tính là tính Nhân văn, tính Khoa nghi, tính Dân gian, tính Cộng đồng, tính Mục đích và tính Giải thoát. Tôi xin diễn tả các đặc tính đó như sau:

1. Tính nhân văn

Bất cứ một nghi lễ, lễ hội nào, chúng ta cần đặt câu hỏi trắc nghiệm xem mục đích nghi thức lễ hội ấy là gì? Có lợi ích gì cho người, cho vật, cho thiên nhiên, đó có nghĩa là mang tính nhân văn, hay nói cách khác có tính thiện, tức là nhân văn. Còn nghi thức lễ hội ấy không mang ảnh hưởng tác động đến lợi lạc xã hội nhân sinh, chỉ là mang tính giải trí, thì đó là sự lợi dụng nghi thức lễ hội vì mục đích nào khác mà thôi.

Chắc chắn một điều, ý nghĩa nhân văn của nghi thức lễ hội ấy, cho dù đã bắt nguồn từ rất xa xưa hay chỉ mới xuất hiện gần đây, thì hình thái ấy ắt phải mang một ý nghĩa gì lợi lạc cho tâm linh hay tạo được tâm trạng an lạc, thoải mái cho người xem người thụ hưởng, đó mới là lợi ích thực thụ đáng làm nên giá trị nhân văn cho cuộc đời. Bởi vậy, thước đo cho một lễ hội hay nghi thức, chính là ý nghĩa nhân văn của nó. Lễ hội nghi thức ấy có thật sự mang lại lợi ích cho xã hội nhân sinh hay không, đó là tính nhân văn được đặt thành tiêu chí đầu tiên. Bởi có những nghi thức lễ hội đã và đang xảy ra đâu đó hiện nay, xét cho kỹ ta thấy chưa hẵn vị nhân sinh, mà chỉ có tính thu hút vì một mục đích nào đó, cho một bộ phận nào đó.

2. Tính Khoa nghi

Nói đến lễ hội hay nghi lễ, tất yếu phải có tính khoa nghi chuẩn mực. Khoa nghi ở đây tức là nghi thức hành lễ đã được quy định thống nhất trong khoa giáo từ ngàn xưa hay từ Ban nghi lễ Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã duyệt.

Thực tế các nghi lễ hiện nay của từng vùng miền hay từng chùa, vẫn còn khác biệt, không đồng nhất và có nơi còn phát triển tùy tiện, chẳng theo thứ lớp một khoa nghi nào đã có trước đây. Sự biến tấu ấy cũng mang đến điều khác lạ, dễ dàng thu hút mọi người, nhưng cũng dễ đi ra ngoài khuôn mẫu của khoa nghi thuần chất Phật giáo đã quy định.

Khoa nghi theo Phật giáo thì rất đa dạng sắc thái, ta thấy về âm thanh, có nơi thì sử dụng lễ nhạc ngũ âm, có nơi thì chỉ thuần dùng chuông mõ, có nơi thì không pháp khí gì hết chỉ xướng tụng, có nơi thì sử dụng âm nhạc hiện đại... Về pháp phục, có nơi thì sử dụng áo mũ màu sắc sặc sỡ, mang hơi hướng cung đình phong kiến xa xưa, có nơi thì mang phong cách nghệ thuật phường chèo tuồng hát, có nơi thì xuề xòa mang dáng dấp dân gian gần gũi tập tục địa phương...

Ta cũng hiểu rằng chư Tổ từ xa xưa đã sử dụng quyền thật phương tiện, dung hợp triết lí Phật giáo vào các phương tiện thế tục ấy, ý nghĩa là để chuyển đạo vào đời hay chứ không phải ngược lại là nhuốm đời vào lý đạo. Có thể thấy những việc ấy thể hiện qua việc chư Tổ đã dùng phương tiện "Phật giáo hóa dân gian" như dùng lễ hội Vu lan báo hiếu của Phật giáo thay dần cho Rằm Trung nguyên tháng Bảy của dân gian; Hay như thực hiện pháp hội đàn tràng Dược Sư đầu năm thay cho tục lệ cúng sao giải hạn từ đạo Lão... Thế nhưng cũng có những lễ hội nghi thức của Phật giáo bị "dân gian hóa"; Ví như những hủ tục xem ngày giờ tốt xấu, xem hướng phong thủy, cúng Tam tai giải hạn, cắt tiền duyên túc nghiệp... vốn không phải là nghi lễ tập tục của Phật giáo thuần túy, nhưng ngày nay thì được các nhà sư xem như hình thức nghi lễ vốn có trong nhà chùa. Việc này đã khiến những người tìm đến nền giáo lý cao siêu Phật giáo để tu học, họ cảm thấy như Phật giáo ngày nay xem nặng hình thức cúng bái đến nỗi trở thành mê tín.

Bởi thế, xem xét về một phong tục tập quán nghi thức lễ hội, chúng ta cần tìm thấy tính khoa nghi chuẩn mực của Phật giáo đã có hiện diện trong nghi lễ ấy hay chưa? Và tính khoa nghi ấy, dù thực sự là đúng với giáo lý đã được chư Tổ ghi chép để lại, dù đã được truyền thừa từ xưa đến nay, nhưng liệu khi ứng dụng có còn cần thiết, còn phù hợp trong thời khoa học hiện đại ngày nay hay chăng?

3. Tính dân gian

Lễ hội luôn bắt nguồn từ những tập tục lề thói của dân gian. Trong lễ hội tất phải có những nghi thức cúng bái thần thánh đã có công bảo hộ nhân lành, hay những nghi thức cầu an giải bệnh, ban phát công đức cho âm siêu dương thái... Những nghi thức này phải luôn gắn với lễ nhạc vùng miền địa phương, gắn với phong tục lệ thói của dân gian. Có như thế thì lễ hội ấy mới có cái để người tham gia lễ hội học hỏi, không làm mất đi chất dân gian truyền thống của địa phương mình.

Ta có thể thấy các lễ hội Phật giáo đậm tính dân gian này ở cả ba miền đất nước. Ở miền Bắc, lễ hội chùa Hương ở Hà Tây, chùa Bái Đính ở Ninh Bình, chùa Yên Tử ở Quảng Ninh.... Những lễ hội này tuy tính dân gian không nhiều lắm, nhưng ít nhất là không có những hủ tục mê tín hay những trò chơi hiện đại thiếu tính dân gian. 

Ở miền Trung, thì rõ nét dân gian nhất là tục hát Bài Chòi, tục đánh cờ người, lễ hội cung đình Huế. Tuy rằng hiện nay, ở festival Huế cũng có nhiều cải biên thành một lễ hội truyền thống pha trộn hiện đại để thu hút du khách ngoại quốc, nhưng cũng còn có những nghi thức hết sức truyền thống dân gian xa xưa được phục dựng lại đầy đủ và sinh động.

Ở miền Nam, ta có thể thấy các lễ hội mang đậm tính Phật giáo hơn, do vì miền Nam chưa phải là vùng đất có tính truyền thống lâu dài. Thế nhưng vì vậy mà tính dân gian được đề cao hơn, như lễ hội thả đèn gió cúng trăng của người Khmer, hát Bội ở các trai đàn tháng Bảy, hay trò kêu lô tô... Đó đều là các lễ hội có tính dân gian đặc sắc tiêu biểu bản chất Việt của dân tộc Việt.

Nhân đây, chúng tôi cũng muốn chỉ ra một số lễ hội hay nghi thức không mang tính dân gian, cần sàng lọc để loại dần, để cho các nghi thức lễ hội của chúng ta ngày được tinh túy đặc sắc hơn. Như là các trò cờ bạc có ăn thua trong các lễ hội, các loại trò chơi điện tử hiện đại, các trò bói toán xủ quẻ giải số mệnh, các nghi cúng cầu đảo trị bệnh, cúng giải tai ách, nghi cầu cơ trục vong... đây là những trò, những nghi thức trong lễ hội không còn phù hợp với xã hội hiện đại vì thiếu tính dân gian tích cực.

4. Tính cộng đồng

Đã là lễ hội, thì phải mang tính cộng đồng, có nghĩa là được sự đồng thuận, mong muốn của số đông và lễ hội hay nghi thức đó phải xuất phát từ nhu cầu của số đông, trong cộng đồng địa phương đó. Có những lễ hội do các khu du lịch bày ra chỉ nhằm thu hút một bộ phận thị hiếu nào đó, chưa phải là nhu cầu của cộng đồng địa phương. Ví dụ như các hội thi hip hop, K pop, thời trang, nhạc trẻ, nhạc ngoại, các loại cờ tướng, cờ vây hay các hình thức văn hóa nước ngoài... đó đều không mang được tính cộng đồng, vì không đại diện được số đông ở nhiều tầng lớp nhân dân của địa phương ấy.

Nghi lễ cũng thế, nghi thức nào mà không hướng tới lợi lạc cộng đồng, thì nghi thức ấy chỉ mang tính riêng lẻ, đã là nghi thức thiên về cá nhân thì trở thành đa nhân cách, đa hình dạng chưa thể là nghi thức được sự thống nhất của mọi tầng lớp, để làm mô thức đại chúng phải vâng theo.

Ở hình thái này, ta thấy tính cộng đồng có trong các nghi lễ Phật giáo như cúng Chẩn tế thập loại chúng sinh, đàn tràng Dược Sư, trai đàn cầu siêu bạt độ, nghi thức Phật đản hay nghi thức cúng vía Quan Thế Âm Bồ tát... Còn dân gian, điển hình như các lễ chọi trâu, lễ cày ruộng, tết trồng cây, lễ hội hát Quan họ, lễ hội trái cây hay các lễ hội mùa xuân hàng năm ở miền Bắc nước ta.

5. Tính mục đích

Bất cứ nghi lễ hay lễ hội nào khi tiến hành cũng đều có mục đích riêng của nó, chỉ khác là mục đích ấy có xứng tầm với lễ hội hay nghi lễ ấy chăng, hay chỉ là mục đích mang tính lợi nhuận, thời vụ để thu hút mọi người mà thôi. Những mục đích mở ra lễ hội hay nghi lễ nếu chỉ đơn giản là thế, chắc chắn sẽ không bền vững và dễ bị quần chúng quay lưng, bởi mục đích của nó không vì nhu cầu cộng đồng.

Gần đây qua các cổng thông tin đại chúng, ta thấy quảng bá khá nhiều loại lễ hội mới lạ, như lễ hội ẩm thực qua những món ăn siêu độc lạ, lễ hội quảng bá những sản phẩm khuyến mãi kém chất lượng, lễ hội du lịch với những tour không đồng v.v... và v.v... Những lễ hội như thế để lại những hệ lụy khôn lường, vì mục đích thật sự không hướng đến cộng đồng mà chỉ đơn thuần chạy theo số lượng mà thiếu đi chất lượng.

Về nghi lễ thì ta thấy mỗi một khoa nghi có mục đích rõ rệt, cần phải được đầu tư thật kỹ càng về các mặt từ hình thức đến nội dung. Về hình thức, khoa nghi cần cho thấy cách lập đàn tràng phải thực sự trang nghiêm, y phục trong nghi lễ phải chỉn chu mà thanh thoát, không nên quá lòe loẹt sặc sỡ mang dáng dấp cải lương phường tuồng, âm nhạc trong nghi lễ phải là lễ nhạc căn bản của địa phương, của dân tộc, chớ nên pha tạp bằng những giai điệu hiện đại lai căng, khiến cho lễ nghi mất đi sự tôn trọng về mặt tâm linh.

Một ý nữa riêng đối với người thực hành nghi lễ, phải được học hành bài bản đúng cách thức, tránh trường hợp non tay nghề bởi chưa được đào tạo đến nơi đến chốn và hành nghề vì mục đích kinh tế. Một nghi thức khoa cúng nào cũng cần phải đầy đủ từ nhân sự, lễ nhạc, cung văn, sư thầy và phải vì mục đích cao cả là hành lễ để âm dương lưỡng lợi, vì lòng từ bi chứ không phải vì kinh tế hay thị hiếu cho một ai đó theo yêu cầu của họ.

6. Tính giải thoát

Cuối cùng, bất cứ nghi thức hay lễ hội nào của Phật giáo đều phải hướng đến rốt ráo là giải thoát. Giải thoát đây có hai ý nghĩa, một là giải thoát xui xẻo ách nạn khổ đau của cuộc đời. Hai là giải thoát khỏi trói buộc phiền não của sinh tử luân hồi, để đạt đến cảnh giới lậu tận vô sinh diệt.

Những nghi thức như bói toán xủ quẻ, cúng sao giải hạn, đốt vàng mả, xem ngày giờ tốt xấu, xem phong thủy, cúng thần linh... Các lễ hội như hội hoa xuân, hội kéo vật, hội đua thuyền, hội nấu bánh nấu cỗ... Chỉ có ý nghĩa tiêu khiển nhân gian, hay là giải thoát buồn phiền đau khổ ở cuộc đời mà không mang tính giải thoát của Phật giáo.

Những nghi thức như Cầu siêu bạt độ, Cầu an giải bệnh, Hộ niệm tang ma, Hành hương cầu phúc, Chấp tác công quả, Nấu chay bố thí... Hay các lễ hội phóng sinh, phát quà lương thực cho người nghèo, lễ hội Cầu an đàn Dược Sư tiêu tai diên thọ vào tháng Giêng, lễ hội hoa đăng mùa Phật đản, lễ Vu lan báo hiếu, Trai đàn chúc thọ, lễ cài hoa hồng ở tháng Bảy, lễ rước kiệu thánh, các lễ hội giỗ chư Tổ ở các chùa hàng năm, hát tuồng tích Phật giáo... đều là những khoa nghi lễ hội mang tính tích cực giải thoát cao cả.

Nét đặc biệt để làm thước đo của nghi lễ hay lễ hội của Phật giáo, chính là trong đó phải mang tải được nội dung giáo lý giải thoát sinh tử luân hồi. Nếu các khoa nghi lễ hội mà chỉ nhằm mang tính vui chơi tiêu khiển, thì lễ hội ấy sẽ không thể tồn tại trong không gian Phật giáo lâu dài, chỉ là lễ hội của dân gian bởi thiếu đi tính lợi ích tích cực của tư tưởng Phật giáo vốn vì mục tiêu giải thoát cao cả. 

***

Nói tóm lại, để cho lễ hội hay khoa nghi trong Phật giáo được trong sạch và có chất lượng hơn, những nhà tổ chức, những vị sư chủ trì khoa nghi phải đặt yếu tố chữ Tâm lên trên hết để phục vụ mọi đối tượng vì mục tiêu lợi lạc nhân sinh.. Có thể mượn một câu hát của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn để nói về chữ Tâm ấy:

"Sống trong đời sống, cần có một tấm lòng..."

Có như thế, các nghi thức tập tục lễ hội sẽ có giá trị lâu dài để mọi người hưởng ứng và xã hội tôn trọng. Và hơn hết, với 6 tiêu chí cần thiết vừa nói ở trên, sẽ là thước đo cho giá trị của nghi thức lễ hội ấy. Chúng ta cũng không cầu toàn quá mức là phải có đủ các tiêu chí trên, mỗi khoa nghi lễ hội chỉ cần có đủ 3 tiêu chí trở lên là đã thành công và có được hiệu quả ít nhiều rồi.

Rất mong qua bài viết này, những vấn đề thiết yếu mà chúng tôi đã nêu trên đây, sẽ được những nhà tổ chức lễ hội, những đơn vị phát triển lễ hội và những nhà hoạch định thực hành nghi lễ sẽ lưu tâm ứng dụng theo chức năng của quí vị, để cho nghi thức hay lễ hội và tập tục của Phật giáo của truyền thống ngàn xưa sẽ ngày một phát huy được tính tích cực, góp phần làm cho xã hội ngày một văn minh, phát triển có khoa học, có ý nghĩa và đi đúng định hướng hơn.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 10.02.2020

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 14)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 13)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 12)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 24
    • Số lượt truy cập : 7049824