Thông tin

NHỮNG NGUYÊN TẮC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO

CẦN THIẾT CHO CUỘC SỐNG XÃ HỘI HIỆN NAY

 

THÍCH NỮ HIẾU LIÊN

 


 

Với dòng xoáy của cuộc sống hiện đại, con người có những tính khí cộc cằn, đầy căng thẳng phiền muộn, thậm chí lạnh lùng đến tàn bạo và tốc độ phát triển ào ạt của khoa học kĩ thuật, con người thời nay sống với đầy đủ tiện nghi hơn nhưng không đảm bảo hạnh phúc. Mở ra một trang báo, xem một mẩu tin tivi, lướt nhìn vào internet, chúng ta thấy xuất hiện nhan nhản tranh chấp, xung đột, vụ án giết người, chiến tranh, khủng bố, buôn lậu, nghiện ngập, hư hỏng, sa đọa, sống thác loạn, hướng ngoại, quay cuồng, vô cảm, ích kỷ, trầm cảm, hưởng thụ vật chất,… Thời đại công nghệ 4.0 mang đến nhiều cơ hội nhưng kèm theo đó rất nhiều thách thức trong cuộc sống hiện tại. Con người nếu không khéo tự chủ, tự chế, đầu óc thì bị cạn kiệt, chịu nhiều stress, bệnh tật liên quan đến tâm lý, tinh thần, lôi cuốn trong vật dục điên cuồng, trở thành nô lệ của máy móc của chính những sản phẩm máy móc của mình, sống trong cô đơn, lạc lõng, hoài nghi, không định hướng,…

Nguyên nhân chính không phải là do ta chưa đạt tới kỷ nguyên hạnh phúc, mà do trái tim con người ta ngày càng trở nên khô cằn sỏi đá, bầu năng lượng yêu thương ngày càng bị vơi kiệt đi, thay vào đó là thành trì bản ngã được hình thành một cách tinh vi và kiên cố. Con người của hiện đại biết rất nhiều thứ nhưng có những cái cần thiết thì họ lại lãng quên, họ có thể chinh phục thiên nhiên tạo nên những kỳ tích vang dội nhưng đối với bản thân, họ trở nên xa lạ với chính mình. Họ bằng lòng với cuộc sống hiện tại nhưng lại lo sợ cho một thảm họa sắp xảy ra. Bởi lẽ, vật chất mang lại cho con người sự sung túc nhưng cũng chính nó hình thành nên một con người vị kỷ, toan tính, tham ái, dục vọng cốt để phục vụ cho quyền lợi cá nhân. Khía cạnh còn nhiều thiếu sót đang cần khắc phục và phát triển  đó là khả năng chinh phục, tự chế, làm chủ chính mình, xây dựng nếp sống đạo đức lành mạnh. Có như vậy cuộc sống mới thăng bằng, bảo đảm cho sự phát triển cá nhân cũng như xã hội bền vững, lâu dài và toàn diện.

Sự biểu hiện của đạo đức trong đời sống thường nhật được cụ thể hóa bằng những quy tắc ứng xử của con người trên nhiều phương diện, trách nhiệm: đối với tự thân, đối với thiên nhiên, môi trường sống, đối với gia đình, đoàn thể, xã hội, đất nước, thế giới đối với muôn loài chúng sanh. Tất cả những điều đó đòi hỏi chúng ta phải có thế giới quan và nhân sinh quan đúng đắn để hướng đạo cho tâm tư, suy nghĩ, lời nói, hành động, biểu hiện, sự tương tác của mình đối với mọi người xung quanh…

Pháp luật cũng là một dạng của ý thức xã hội, nhưng giữa pháp luật và đạo đức có nhiều điểm khác nhau. Bởi vì nếu pháp luật khuyến cáo, trừng trị, chỉnh đốn những ứng xử hành vi của cá nhân hay tập thể bằng những nội quy mệnh lệnh, văn bản…thì đạo đức góp phần chỉnh đốn, nói năng, hành động, thái độ ứng xử con người bằng nhận thức lý trí, tình cảm, lẽ sống theo nguyên tắc tự nguyện, theo tiếng nói của lương tâm có sự cân nhắc của những dư luận xã hội.

Hơn nữa, tư tưởng đạo đức, tu dưỡng đạo đức và môi trường đạo đức giúp mỗi con người hình thành nên đạo đức phẩm hạnh tốt đẹp, nếu không, con người sống với thói quen, tập khí xấu xa, ảnh hưởng môi trường xung quanh bao nhiêu chủng tử hiện hành thì trở thành hư hỏng bê tha cho đến khi có sự can thiệp của pháp luật thì trở nên trễ tràng, chỉ còn là sự trừng trị chứ không còn ý nghĩa giáo dục, uốn nắn và phòng ngừa từ xa nữa.

Trong sinh hoạt cuộc sống cũng như trong kinh doanh, nếu mọi người tự ý thức được nhân quả với Bài Học Ngàn Vàng: “Phàm làm việc gì, trước phải xét kỹ đến hậu quả của nó”1 thì đã không xảy ra những tệ trạng người bóc lột người, tham nhũng, bất công. Người con Phật không nên sống theo cách “cạnh tranh sinh tồn”, “thương trường là chiến trường” mà nên sống với giới luật và đặc biệt là Chánh Mạng trong Bát Chánh Đạo, mọi người luôn cân nhắc đến Thiện Pháp, tính hợp tình, hợp lý, lợi ích cho người khác trong khi mưu cầu lợi ích và sinh tồn cho bản thân mình.

Phật giáo không phải là một hệ thống về đạo đức giáo điều khô khan mà là cả một kho tàng trí tuệ và phương pháp cụ thể để thực hành, tu tập chuyển hóa thân tâm. Bởi vì tham-sân-si là căn bản phiền não con người, từ đó gây ra bao nhiêu điều xấu xa tội lỗi cho mình và xã hội, việc tu tập chuyển hóa phải thực hiện hàng ngày, hàng giờ để chuyển hóa tham sân si phiền não, thay đổi bản chất bên trong con người và thay vào đó là những năng lượng tích cực, có như vậy mới có thể biểu hiện tốt đẹp ra bên ngoài trong các mối quan hệ xã hội.

Như chúng ta thấy, đạo đức Phật giáo bao gồm phạm vi rộng rãi, định hướng, suy nghĩ, hành động, ứng xử trong cuộc sống và chí hướng vượt ra ngoài vòng luân hồi, giải thoát. Nghiệp báo, nghiệp quả là sự phán xét công bằng của đạo đức, mỗi người hãy tự nghĩ đến luật nhân quả và ý thức đầy đủ và quyết định cho mọi hoạt động của mình. Theo quan điểm Phật giáo không có vị sáng tạo đấng siêu nhiên nào và mọi giá trị luân lý đạo đức con người tự học hỏi tích lũy và điều chỉnh cho thích hợp qua không gian thời gian, hoàn cảnh mình đang sống

Những chuẩn mực đầy tính nhân văn của đạo đức Phật giáo, đóng vai trò rất lớn đối với đời sống con người trong xã hội với nhiều mối quan hệ khác nhau trong tương tác đời sống con người. Xã hội ngày nay nền kinh tế phát triển khiến họ đã lôi cuốn nhiều người vào vòng thác loạn của tiền tài vật chất mà quên đi giá trị đạo đức căn bản, những truyền thống tốt đẹp thì những sinh hoạt phật giáo cần thức tỉnh họ nhận chân ra được những gì đáng giá nhất và sống sao cho thật ý nghĩa trong kiếp người giới hạn này.

Giáo lý đạo Phật là một hệ thống triết học mang tính giáo dục đạo đức, thể hiện triết lý sống nhân văn, vì vậy phải phát huy mạnh mẽ và cần phổ cập trong quần chúng, hầu ngăn chặn những hành vi xấu ác, xây dựng mẫu người lý tưởng, kiến tạo một xã hội thanh bình, chỉ có như vậy thì cuộc sống mới ý nghĩa thật sự. Thiền sư Jisu Sunim nói rằng: “Ý nghĩa của cuộc đời, nói một cách bóng bẩy, giống như ánh sáng chói chang của mặt trời. Bạn sẽ không thể biết nó ra sao, trừ khi bạn ra ngoài nắng, đứng dưới nắng2.

NHỮNG QUAN ĐIỂM ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO GÓP PHẦN XÂY DỰNG XÃ HỘI

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời vào thế kỉ VI trước công nguyên tại Ấn Độ, sau khi chứng đạo quả vô thượng chánh đẳng chánh giác dưới cội bồ đề, hơn 45 năm Ngài đi khắp đó đây hoằng pháp độ sanh. Gặp bất cứ người nào Ngài đều vì căn cơ hoàn cảnh của người đó mà chỉ dẫn giáo hóa để người đó sống tốt hơn và có những thay đổi tích cực hơn. Đức Phật đã tạo những chuyển hóa nhiệm màu, những thay đổi lớn lao đối với con người và xã hội Ấn Độ thời đó: Kẻ giết người trong chớp mắt như Ươm Quật Ma La (Vô Não) trở thành một vị thánh nhân, con dâu hỗn hào của Cấp Cô Độc trở thành người vợ hiền dâu thảo, kỹ nữ Liên Hoa Sắc trở nên bậc tịnh hạnh tỳ kheo ni thần thông đệ nhất, vua A Xà Thế từ thất vọng bi thương (ăn năn hối lỗi về việc giết cha),trở nên một người có niềm tin, hy vọng, làm lại cuộc đời, tiếp tục sống tốt, nhiều người ngoại đạo từ thái độ kiêu căng, thách thức, tranh cãi trở thành người biết điều thuần phục, biết lắng nghe, thiết tha với chân lý, con Voi say hung dữ muốn giết người trở thành con Voi hiền lành quỳ xuống thân thiện, con chó nhà Đế Đô từ hung dữ trở nên hiền lành biết hối lỗi.

Đức Phật đã chuyển hóa từ người ác trở thành hiền nhân, từ phàm phu trở nên thánh nhân, thay đổi những biểu hiện, thái độ, tư cách xấu xa trở nên đúng pháp, chân chánh tốt đẹp, góp phần xóa bỏ những tục lệ hũ lậu tai hại, trở nên nếp sống lành mạnh đạo đức. Do đó công đức của Như Lai Thế Tôn được tán thán như sau: “Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc”3.

Đức Phật Thích Ca vốn là Bồ Tát Hộ Minh trên cung trời Đâu Xuất, vì lòng từ bi mà đến với thế giới này. Bởi vì, chúng sanh còn mê muội nên cuộc sống ngập tràn phiền não khổ đau, Ngài đến mang cho đời ánh sáng, hơi ấm tình thương và hạnh phúc an vui: “Một người, này các Tỷ-kheo, khi xuất hiện ở đời, sự xuất hiện đem lại hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người. Một người ấy là ai? Chính là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh đẳng giác. Chính một người này, này các Tỷ-kheo, khi xuất hiện ở đời, sự xuất hiện đem lại hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người4.

Bài pháp quan trọng bậc nhất mà Như Lai đã từng thuyết chính là bài Chuyển Pháp Luân cho năm anh em Kiều Trần Như tại vườn Nai (vườn Lộc Uyển). Qua đó, Như Lai đã chỉ ra những nỗi khổ, nguyên nhân của khổ, con đường dứt trừ khổ đau, đưa đến an tịnh niết bàn. Con người khổ bởi vì suy nghĩ nói năng hành động mang tính chất bất thiện, xấu xa tội lỗi, tất cả đều liên quan đến vấn đề đạo đức. Hơn 45 năm thuyết pháp độ sanh, Ngài cũng chỉ làm một công việc ấy, giúp cho đối tượng nhìn thấy được cái lỗi, cái sai, cái bất thiện nơi mình và tu tập thay đổi chúng để được hướng thượng thăng hoa, an lạc, giải thoát, quả đúng như lời Ngài đã dạy: “Chư tỷ-kheo, xưa cũng như nay, Ta chỉ nói lên sự khổ và sự diệt khổ”5.

Những nguyên lý đạo đức sẽ là kim chỉ nam chỉ đường cho những hành động đúng đắn. Phật giáo không phải là một tôn giáo mang tính huyễn hoặc xa xôi mơ hồ, mà là những lời dạy rõ ràng, những nếp sống đúng đắn mang đến an vui ngay bây giờ và tại đây, chứ không phải cầu khẩn van xin, chờ đợi hạnh phúc, hứa hẹn ở một thế giới xa xôi sau khi chết. Phật giáo là để sống, để tu tập, để thể nghiệm, cố hòa thượng Thích Minh Châu đã nhấn mạnh tính chất thực tiễn của giáo lý như sau: “Đạo đức học trong Triết học là môn học nhằm đánh giá hành động; từ đó nhận rõ con đường người ta phải theo để loại trừ những sai lầm, khổ đau, tiến đến hạnh phúc tối hậu. Trong ý nghĩa tổng quát và căn bản này toàn bộ kinh sách Phật giáo dù vô cùng phong phú, chi li được xem là thuộc pháp môn để thực hành, để tu tập, tiến đến Giải thoát, hạnh phúc miên trường, cứu cánh Niết-bàn, và như thế, Phật học rốt lại chính là đạo đức học. Đó là ý nghĩa thực tiễn nhất của giáo lý Phật giáo vậy”6.

Ngoài việc hướng dẫn cho mỗi cá nhân hoàn thiện chính mình, trong nhiều bài kinh Đức Phật còn chỉ dạy phương cách ứng xử trong các mối quan hệ, tương tác trong gia đình và xã hội như là đạo làm dâu và cách làm vợ, đối với con dâu Sujātā của trưởng giả Cấp Cô Độc, trong “Kinh Bảy Loại Vợ” Tăng Chi Bộ Kinh- (Chương Bảy Pháp), hoặc là dạy cho Thiện Sanh.

Này Thiện Sanh! Sau khi cha mất, con phải chắp tay mà lạy sáu phương rằng: Ở phương Đông, nếu có chúng sanh nào thì tôi hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng chúng sanh đó.

Phật dạy Thiện Sanh thay vì nghe theo lời cha dạy lễ bái cúng dường, lễ bái, thờ phụng sáu phương một cách cứng ngắt bằng việc đối xử tốt trong gia đình, nơi làm việc và xã hội, dạy các vị vua về cách trị nước, an dân… bất cứ ai ở vị trí nào thì Đức Phật chỉ cho họ cách sống để thực hiện tốt hơn chức năng, vị trí của họ. Chính vì thế Albert Schweitzer có lời nhận xét: “Nhiều học giả, nhà đạo đức học, triết học, xã hội học trên thế giới đều thừa nhận, đạo đức Phật giáo là chuẩn mực đạo đức cho loài người, mang giá trị phổ biến, giá trị toàn cầu. Đáng chú ý nhất là sự đánh giá của Albert Schweitzer, nhà Ấn Độ học người Đức, Ông viết: “Đức Phật đã sáng tạo ra một nền đạo đức nội tâm hoàn thiện nhất, và trong lĩnh vực này, đức Phật đã nói lên những chân lý đạo đức có giá trị bất hủ, nền đạo đức không phải của riêng đất nước Ấn Độ mà của cả loài người nói chung. Đức Phật là một trong những nhà đạo đức học vĩ đại nhất, kỳ tài nhất mà thế giới có được”7.

Khái niệm đạo đức theo Phật giáo có thể được hiểu là: “Đạo đức Phật giáo có khái niệm: “đạo là chánh pháp, đức là đắc đạo, là nền chánh pháp không sai lệch”8.

Đạo đức theo Phật giáo là những quy tắc, nguyên lý, theo tư tưởng được đưa ra trong Phật giáo để hướng dẫn lèo lái nếp sống của con người. Thông qua việc tuân thủ, ai quy phạm chúng mà cá nhân hay đoàn thể được đánh giá là đúng-sai, phải-trái, tốt-xấu, chánh-tà…đạo đức Phật giáo có khá nhiều điều giống với thế gian nhưng cũng có nhiều điều khác với thế gian, bởi vì chỉ xét mối quan hệ giữa người với người, trong khi Phật giáo trân trọng mọi loài chúng sanh, đạo đức thế gian chỉ xét về lợi ích tại thế gian này, còn đạo đức Phật giáo giúp hành giả vượt thoát thế gian, ra ngoài luân hồi sanh tử. Do đó Phật giáo còn có hệ thống giới luật bên cạnh hệ thống quy tắc đạo đức thế gian. Ngoài ra hành giả Phật giáo tu định để có thể làm chủ bản thân mình và phát triển trí tuệ để soi sáng mọi hành vi, cử chỉ của bản thân mình. Ví dụ sát hại các loài sinh vật, thông thường thì được đạo đức thế gian cho phép, giết vật tế lễ, cúng ở đền miếu được xem là tôn kính thần linh, đối với Phật giáo như vậy là mang tội sát sanh, gây thêm nghiệp ác, hoặc là nghe đờn ca hát xướng đó là chuyện thường tình của người thế gian, đối với người tu hành thanh tịnh thì không nên…do vậy: “Theo nghĩa rộng, đạo đức Phật giáo là toàn bộ giá trị, chuẩn mực, phẩm hạnh, an lạc, hạnh phúc,... con người có được từ việc thực hành giáo pháp, tức lời dạy của đức Phật. Trong ý nghĩa này, đạo đức Phật giáo không chỉ đặt trên nền tảng của giới, mà còn được khởi nguồn từ pháp, trong ý nghĩa phân biệt giới luật. Và trong trường hợp này, đạo đức Phật giáo có nhiệm vụ phối hợp với thiền định và trí tuệ nhằm thực hiện các chức năng hướng tâm đến đời sống an lạc, giải thoát cao thượng. Chính ở chức năng này, đạo đức mới được xem là nền tảng của mọi thực hành Phật pháp”9.

Thông thường, các nguyên tắc đạo đức Phật giáo được trình bày theo hình thức các quy định, các điều răn. Chẳng hạn như, không được phép làm việc này, không được phép làm việc nọ. Cách trình bày này chủ yếu được biết đến trong các văn bản Giới luật truyền thống. Tuy nhiên, với cái nhìn sâu sắc hơn, có thể thấy đạo đức Phật giáo không chỉ đơn thuần là nguyên tắc được trình bày theo các kiểu quy định, các điều răn, mà trên thực tế, nó còn được chỉ dẫn bằng ngôn ngữ tích cực, tức dưới hình thức khuyến khích con người nỗ lực thực hiện các việc thiện, lợi ích. Do đó tổng quan về đạo đức theo Phật giáo được đúc kết trong một bài kệ của  kinh Pháp Cú:

“Không làm mọi điều ác

Thành tựu các hạnh lành

Tâm ý giữ trong sạch

Chính lời chư Phật dạy”10.

Khái niệm thiện và bất thiện được Vi Diệu Pháp, bộ luận thời Phật giáo nguyên thủy xác định như sau: “Định nghĩa Pháp thiện: là các thực tại làm nhân tạo duyên cho quả thiện. Như vậy pháp thiện gồm tâm thiện và quả thiện.Tâm thiện: là những tâm tốt đẹp, không nhiễm lỗi lầm, có khuynh hướng không gây hại cho ai và luôn tạo nhân lành cho quả vui”.

Đạo đức học Phật giáo bao gồm giới luật, hướng dẫn về cách tu tâm dưỡng tánh, làm chủ bản thân, về ý nghĩ, lời nói, hành động, chánh niệm, thể hiện các oai nghi, vô ngã vị tha, lòng từ bi thương người, giúp đời, giúp mỗi cá nhân hoàn thiện chính bản thân mình, cư xử tốt hơn với những người khác và thực hiện trọn vẹn chức năng vai trò của mình trong cuộc sống và các đoàn thể sống theo nguyên tắc lục hòa, đảm bảo công bằng, ổn định, phát triển, hạnh phúc, giúp cho xã hội và thế giới này thêm Chân Thiện Mỹ.

 


1. Thích Thiện Hoa (1967), Bài Học Ngàn Vàng, Chương II: Phản ứng của Vua khi mở bài học ra xem, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, tr. 34.

2. Diệu Liên (dịch) (2017), Theo Buddhism Now “Đàm đạo ý nghĩa cuộc đời”, www.DUDSAS.ASIA, Thiên Nhân Sư- trang blog truyền bá Đạo Phật.

3. Thích Minh Châu (dịch) (2012), Kinh Trung Bộ 1, 7. Kinh ví dụ tấm vải, Hà Nội, Nxb: Tôn Giáo, tr. 65.

4. Thích Minh Châu (dịch) (1996), Tăng chi bộ I, chương I, phẩm Một người, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, TPHCM, tr. 46-48

5. Thích Minh Châu (dịch) (2012), Kinh Trung Bộ, tập I, Đại Tạng Kinh Việt Nam Nam truyền, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr. 185.

6. Thích Minh Châu (2002), Đạo Đức Phật Giáo Và Hạnh Phúc Con Người, Nxb. Tôn giáo, tr.3.

7. Edward Conze - Nguyễn Hữu Hiệu (dịch) (1969), Tinh Hoa Và Sự Phát Triển Của Đạo Phật, Sài Gòn, Viện Đại Học Vạn Hạnh, tr. 117.

8. Đoàn Trung Còn (1996), Phật Học Từ điển, Nxb TPHCM, tr 524.

9. Thích Phước Toàn (2017), Đạo Đức Phật Giáo – Con Đường Và Sự Biểu Hiện, Hà Nội, Nxb. Hồng Đức, tr. 35.

10. Thích Minh Châu (dịch) (2014), Kinh Pháp Cú, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, tr. 44.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 14)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 13)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 12)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 39
    • Số lượt truy cập : 7049098