Thông tin

NHỮNG PHẬT SỰ CỦA THIỀU CHỬU Ở THÁI NGUYÊN

TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP

 

NGUYỄN ĐẠI ĐỒNG*

 


 

“Ba bát cháo, đáo Tam Đảo”

8 giờ tối ngày 26 tháng 11 âm lịch năm 1946 (tức tối 19-12- 1946), tiếng súng nổ ở Thủ đô; Thiều Chửu thu xếp các em chạy tản cư vào làng Đan Thầm, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông. Lúc đó, có tới 90 em do Hội Việt Nam Phật giáo trông nom, phần nhiều là 5 - 6 tuổi, vì đói ăn mắc các bệnh lỵ và nề rất nhiều; nhiều em phải gánh. Có 6 sư Ni, 3 sư Tăng trông nom vào đó và anh Nguyễn Quý Tán giúp việc dạy các em học. Còn Thiều Chửu ở lại đến gần Tết âm lịch mới đi, vì lúc đó có ông Đường Thể Châu người phụ trách tự vệ kháng chiến khu Sinh Từ (nay là phố Nguyễn Khuyến, Ngô Sĩ Liên, Hà Nội) về bảo ông in giúp các truyền đơn và bản tin chiến đấu; và nhà in (Đuốc Tuệ) của Hội Phật giáo lúc đó cũng dời về am Tế Độ (ở quận Thanh Xuân Bắc, Hà Nội). Đến phút cuối cùng thì Thiều Chửu thực hiện tiêu thổ kháng chiến: phá máy in, đổ hết con chữ xuống ao rồi mới đi; nhà cửa cũng đốt hết.

Để chia sẻ khó khăn với Thiều Chửu, Thượng tọa Thích Trí Hải cử hai đệ tử là các sư Thích Tâm Giác và Thích Quang Khải xuống Đan Thầm đưa gần 30 em trên 10 tuổi tản cư kháng chiến về Đông Kết, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên rồi qua Tùng lâm của Hội ở huyện Phụ Dực, tỉnh Thái Bình, cuối cùng về chùa Mai Xá, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam là nơi Thượng tọa trụ trì.

21 em Hợp Thiện được Hội Hợp Thiện tìm đến chuyển đi. Còn 40 em, Thiều Chửu chuyển về huyện Phú Xuyên ở làng Trung Lập. Sau đó lên làng Yên Mỹ, huyện Tùng Thiện, tỉnh Sơn Tây rồi sang Cao Phong Phật học tràng (vùng Nội Bài, Phúc Yên). Cuối năm 1949 quân Pháp đánh lên Phúc Yên, Thiều Chửu đưa cả đoàn vượt Tam Đảo sang Thái Nguyên… Đi suốt ngày tới chân núi Tam Đảo, lúc đó còn tất cả 38 em, em bé nhất 5 tuổi phải cõng và gánh. Cả đoàn người dậy sớm nấu nồi cháo lớn, mỗi người ăn 3 bát và cùng hô khẩu hiệu: “Ba bát cháo, đáo Tam Đảo”1. Suốt ngày leo trèo, khổ nhất là cáng người què (mẹ Thiều Chửu bị ngã gãy chân) và cõng em bé. Lúc qua dốc Tam Đảo, nhiều chỗ phải bò hay ngồi xuống bíu rễ cây mới xuống được. Đi đến tối mới tới chân núi bên này Vĩnh Yên, vô sự cả. Về Phi Đơn mấy hôm, chỗ ở chật quá nên đoàn phả    i tìm vào Lý Nhân cách đó 3 cây số. Tiền hết, gạo hết, phải bán nồi, bán sanh2 lên tận Cù Vân mua sắn về nấu cháo. Hôm nào Thiều Chửu cũng phải dậy từ gà gáy để giã sắn nấu cháo. Đói quá, khổ quá, hết sắn lại cháo lợn. Cả lớn bé gần 50 người, ngày ăn có 4 bát gạo nấu với một rổ sề lá khoai lang già, y như đồ lợn, nên các em mới đặt cho cái tên là cháo lợn. Lúc đó gạo lên cao quá, cảnh đói lan đến cả nhân dân; bộ đội cũng ăn cháo. Một hôm, có một tiểu đội Vệ quốc đến đi suốt xóm không đong được gạo, đoàn phải nhường cho 4 ca; nấu cháo chưa nhừ bộ đội đã húp vội rồi đi. Thấy cảnh thực ấy cả đoàn cảm động vô cùng và tự nhiên thấy như chết gần hết những nỗi oán đói.

Phật tử phải có trách nhiệm với kháng chiến

Lúc bấy giờ, việc cấp thiết nhất của Thiều Chửu là bằng mọi cách cứu cả đoàn người đi theo ông thoát đói. Ông bàn với các sư rằng chỉ còn cách vỡ đồi trồng rau và làm gạo sáo3 là sống ngay, nhưng lấy đâu ra tiền? Ông liền viết thư lên Bộ Nội vụ và Ủy ban hành chính kháng chiến Liên khu I. Chưa đầy nửa tháng đã có giấy gọi đi lấy tiền. Ủy ban khu giúp cho một vạn đồng. Sung sướng quá, ông cùng các em reo lên. Tiếp sau lại cho mua vài chục thước vải và 300 ký ninh vàng4, bán bớt đi làm vốn, cả nhà ra sức làm gạo sáo, kiếm được đủ gạo nấu cháo và sắn ăn.

Đoàn của Thiều Chửu gồm các nhà sư và trẻ em nên công lương5 được chính quyền và nhân dân địa phương cho miễn. Tuy nhiên, ông nói với đoàn rằng, Phật tử chúng ta phải có trách nhiệm đối với đất nước đang kháng chiến. Ông động viên đoàn chịu đói lấy tiền vốn nói trên đong thóc đóng công lương đầy đủ cho chính quyền. Không những thế, ông còn mua công phiếu chính phủ: “Còn nhớ Rằm tháng 8 âm lịch năm 1950, ông Nhân Phó chủ tịch huyện Đồng Hỷ có khuyến khích các xã xung quanh đến thăm các em. Nhưng chỉ có xã Đồng Tiến đến cho hơn 1.400 đồng lại toàn giấy rách không tiêu được; sau chúng tôi phải thêm tiền vào cho đủ 5.000 đồng để mua công phiếu kháng chiến”6.

Tấm lòng của Bồ tát

Một trong 6 sư Ni trong đoàn của Thiều Chửu là Ni trưởng Thích Đàm Ánh (1925-2015) trụ trì chùa Phụng Thánh ở ngõ Cống Trắng, phố Khâm Thiên, quận Đống Đa, Hà Nội, kể: “Ối dà! Chẳng có ai được như thầy tôi đâu! Tôi theo thầy Thiều Chửu từ năm tôi mới lên mười, đến nay đã tám mươi năm rồi, nhưng tôi thấy chẳng ai như thầy tôi cả. Cụ đúng là một vị Đại thừa Bồ tát đấy, đúng là Đại thừa Bồ tát, không Bồ tát thì không làm nổi những cái việc như thế đâu. Cụ làm cái gì cũng giỏi, đỡ đẻ mát tay lắm. Cái ngày dựng trại Tế sinh ở trên Thái Nguyên ấy, nhân dân toàn đến nhờ thầy tôi đỡ đẻ thôi, đi cày, đi cấy, giồng sắn, giồng khoai, chẳng từ nan một việc gì cả. Mà cụ chịu cực giỏi lắm, ngày làm quần quật như thế , tối về rét mấy cũng chỉ độc cái chăn chiên Nam Định mỏng tanh với manh chiếu cói rải ra thềm đất, nhường chỗ trong nhà cho học trò, mưa to, gió lớn đến mấy cũng không chịu vào. Có lúc chúng tôi phải hè nhau ra khiêng cụ vào”7.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Bộ Giáo dục mở vườn trẻ, Thiều Chửu cử 5 sư Ni dự lớp mẫu giáo 15 ngày; lúc về cố gắng cùng nhân dân sở tại mở một vườn trẻ nhỏ có độ 15 em. Theo phương pháp mới, Thiều Chửu và các đệ tử hết sức săn sóc, các em tiến bộ mau lắm8. Năm 1950, ông còn sáng tác các bài hát, trò chơi huấn luyện cho các sư Ni để dạy các trẻ thơ. Bà Ngô Kim Thành một trong 5 sư Ni - cô giáo ngày đó năm nay gần 90 tuổi, đưa cho tôi cuốn vở ghi những bài mà bà đã được thầy Thiều Chửu dạy ngày ấy:

Đu cao

Đu cao, đu cao, đu bổng lên.

Đu giữ cho chắc, cho bền.

Muốn lên mây với gió (hờ),

Muốn lên cây với chim.

Có ai muốn thích đu tiên,

Nhường để cho lên một lần.

(hát lại từ đầu)

Nu na nu nống

Ngồi song song duỗi đôi chân ngà,

Đếm cho đều, cho đúng đừng sai.

Chân ai bị đếm cuối bài,

Tình tang tang tính tình,

Bé coi như què.

(Ai rơi đúng chữ què thì phải đứng dậy

nhảy lò cò vòng quanh)

Dung giăng dung dẻ

Dung giăng dung dẻ,

Dắt trẻ ra đây,

Đông đủ một bầy,

Vui chơi sung sướng,

Theo đàn bướm lượn,

Trên bãi cỏ xanh,

Hoa quả sai cành,

Ta hái mang về.

(hết chữ về thì giả vờ đưa tay ra phía trước như hái quả)

Sau vì máy bay khủng bố dữ và nhân dân thấy các sư nhịn đói làm việc nên mới xin tạm đình.

Không chỉ tổ chức nhà trẻ, những lúc nông nhàn Thiều Chửu còn mở các lớp Bình dân học vụ để giúp nhân dân trong vùng xóa nạn mù chữ theo lời kêu gọi diệt giặc dốt của Hồ Chủ tịch.

Động viên đệ tử đầu quân

Năm 1950, cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc đã bước sang năm thứ 4, Chính phủ kêu gọi nhân dân đóng góp sức người sức của cho kháng chiến. Bấy giờ trong đoàn của Thiều Chửu, các sư Ni trông nom các em và vườn trẻ, công việc tạm được. Sư Thích Quảng Quang, theo ông từ năm 11 tuổi, sư Thích Thanh Tuấn (đệ tử Thượng tọa Thích Trí Hải, chùa Mai Xá, Hà Nam) và sư Thích Thanh Dưỡng (đệ tử của Tổ Cồn tức Hòa thượng Tuệ Tạng - Thích Tâm Thi, Nam Định) ở với ông đã mấy năm, tuy là sư nhưng có đầu óc sáng suốt, nghe ông hướng dẫn đều hăng hái đi đầu quân vào bộ đội Thông tin liên lạc9. “Nhờ ơn Hồ Chủ Tịch, ơn Đảng giáo dục, anh Quang đã tiến tới chiến sĩ thi đua đại đoàn, anh Dưỡng chiến sĩ thi đua tiểu đoàn, anh Tuấn cá nhân xuất sắc10. Còn anh Nguyễn Quý Tán, Thiều Chửu giới thiệu ra Ủy ban hành chính kháng chiến huyện”11.

Tháng 9 năm 1950, giặc tấn công lên. Đoàn của Thiều Chửu ở trong vòng vây 12 ngày, suốt ngày đêm chui trong các bụi rậm ngoài đồi núi, nắng dầm mưa dãi, rất gian khổ. Trước sau chết mất 4 em. Lý Nhân là nơi hẻo lánh; đồng bào tản cư đến đông, mà phần nhiều là đồng bào vùng xuôi tản cư lên; nên trong lúc lánh nạn, các sư Ni và các em lớn chắc là có gặp người quen thuộc nên cùng bàn với nhau về tề gần hết. Lúc yên, kiểm điểm lại chỉ còn 15 em, trừ em Kim, em Dậu gửi vào xưởng giấy Đoàn Kết của báo Cứu Quốc, em Hơn và em Mỹ gửi vào hãng thuốc lá Bắc Sơn. Em Hơn sau cũng chết, em Mỹ cũng không thấy đâu nữa12.

Hỡi đệ tử Thích Ca, đường tu nhằm cho đúng

Cuối năm 1951, Miễn (cháu gọi Thiều Chửu là bác ruột) về nội thành nói rằng: “Tăng già chỉ chuyên mê hoặc nhân dân, nạn đàn tràng cúng vái, đồng bóng lại tệ hơn ngày xưa. Đó cũng là một cách gián tiếp giúp bọn thực dân đế quốc dễ bóp chết dân mình”. Thiều Chửu nghe xong, nghĩ mà thương cho các bạn cùng một tín ngưỡng. Ông liền gửi tập tài liệu Giáo dục Tăng già của Hội Phật giáo Cứu quốc huyện Kim Anh biên soạn năm 1948 cho anh Phạm Xuân Đường (nguyên là con rể nuôi của Thiều Chửu và cũng đã học ông mấy năm. Anh trước theo kháng chiến làm Huyện đội dân quân ở quê thuộc tỉnh Hải Dương, sau anh vào làm nhà in Đuốc Tuệ ở chùa Quán Sứ và hoạt động cho kháng chiến ở khu phố Quán Sứ. Cuối năm 1952, việc bại lộ, anh bị giặc Pháp bắt chưa biết còn sống hay chết)13 để anh tìm cách giác ngộ cho nhân dân trong nội thành. Trong đó có kèm một bài thơ rằng:

Nhớ Tổ Bách Trượng xưa, thật thành thần lao động;

Một ngày chẳng làm chi, một ngày cam trống bụng.

Chúng ta là hạng nào? mà không biết tự trọng.

Cũng len nhũn lụa mềm, cũng chè xuân thuốc cống.

Cũng xuống ngựa lên xe, cũng tiền rương thóc đống.

Ngũ dục thả cửa chơi, ngũ cái tha hồ hống!

Hỏi nguồn ở đâu ra? đục vào lưng quần chúng.

Học chưa quá i tờ, đạo hoàn toàn ngô ngọng.

Hạt gạo nhớn nhường non, đâu phải là ứng cúng.

Cứ theo lẽ chân thường, ai cũng có quyền sống.

Có làm thì có ăn, biếng lười tất mất giống.

Đừng tưởng lầm ngày xưa, người ta còn mê mộng.

Mà dùng cách thôi miên, mà tính bề lợi dụng.

Hết cầu cúng đàn tràng, lại bùa bèn đồng bóng.

Thả săn sắt đòng đong, bắt cá rô cá bống.

Bòn rút hết hầu bao, để tự cung tự phụng!

Dân vì đó suy tàn, nước vì đó lủng củng.

Làm mồi cho thực dân, dễ bóp cổ bưng họng.

Hỡi đệ tử Thích Ca, đường tu nhằm cho đúng.

Trông gương Phật Tổ ta, như bể trời lồng lộng,

Lục Tổ là tri lương, Tứ nhiếp là tầu súng.

Hy sinh vô tận cùng, phục vụ cho đại chúng.

Phúc trí đều như nhau, viên thành công tu chứng”.

Cuối năm 1952, nghe tin một số Tăng già nội thành ra làm tay sai cho người Pháp, Thiều Chửu giận quá, có viết một bài cảnh cáo chúng gửi về cho anh Đường tìm cách phổ biến. Nội dung bài ấy có hai phần. Phần I chỉ rõ tinh thần cách mạng của Phật giáo Thiền tông. Phần II chỉ rõ chỗ suy kém của Pháp, và chỉ cho đường về với kháng chiến (những bản gửi về đều có lưu một bản lại). Từ khi biết tin anh Đường bị giặc bắt, Thiều Chửu không gửi gì nữa và thủy chung ông cũng không có một lời nào chữ nào với bọn họ nữa. Chỉ nhận được một tấm ảnh của gia đình anh Đường. Nghe nói anh Đường bị giặc bắt, vợ con khổ sở lắm; Thiều Chửu bảo bớt số tiền của người quen gửi cho ông, đưa cả cho vợ con anh Đường mưu sống (số tiền này chừng độ 1.000 đồng Đông Dương)14.

Góp phần chấn hưng Phật giáo

Sự nghiệp phiên dịch và sáng tác của Thiều Chửu từ năm 1926 đến năm 1953 gồm trên dưới 90 đầu sách, trong đó có 5 cuốn hoàn thành trong những năm tháng kháng chiến ở Thái Nguyên:

1) Lục Tổ Đàn Kinh (dịch), Phương Tiện 1950; Đuốc Tuệ tái bản 1953.

2) Phật học cương yếu (dịch), Đuốc Tuệ 1951, VV 614/74, 182 trang.

3) Con đường học Phật ở thế kỷ thứ 20 (trước tác), Đuốc Tuệ 1952.

4) Chú giải kinh Viên Giác (dịch), Đuốc Tuệ 1953.

5) Kinh Diệu pháp Liên hoa (dịch), Đuốc Tuệ 195315.

Bốn cuốn kinh sách Phật: Lục Tổ Đàn Kinh, Phật học cương yếu, Chú giải Kinh Viên Giác, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Thiều Chửu đã dịch từ năm 1948-1949, khi lên Thái Nguyên ông bổ sung và hoàn thiện rồi cử người về Hà Nội gửi Thượng tọa Tố Liên hoặc Thượng tọa Trí Hải in ấn.

Theo nhà Hán học lão thành Vũ Tuấn Sán căn cứ vào lời ghi trang 78, sách Con đường học Phật ở thế kỷ thứ 20 do Đuốc Tuệ in lần thứ nhất vào năm 1952, có câu: “Đến nay tuổi đã 50, mới dám đem cái chú sớ (tức lời chú giải các sách kinh), chỗ nào phải, chỗ nào sai tự thấy rõ ràng. Như vậy sách đã được viết vào những năm 1950, 1951, hồi ông đang sống ở vùng tự do, hòa mình trong cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Do đó, ta không lấy làm lạ khi thấy ghi ngay ở đầu trang sách, được đóng khung và in trang trọng toàn hàng chữ hoa “PHẢI TẬN HIẾU VỚI NHÂN DÂN, NHÂN DÂN LÀ CHA MẸ BAO KIẾP, LÀ CHƯ PHẬT VỊ LAI”16.

Đây là cuốn sách viết bằng máu và nước mắt như lời học giả Vũ Tuấn Sán17, thể hiện khá đầy đủ quan điểm của một Phật tử chân chính, tiên tiến, yêu nước, kiên quyết chống lại việc một số Tăng sĩ vùng địch chiếm mưu mô thần bí hóa đạo Phật, qua đó gián tiếp      phục vụ âm mưu của thực dân Pháp muốn làm nhụt tinh thần kháng chiến của dân tộc ta. Nguyễn Hữu Kha đã không ngần ngại phơi bày một số tình trạng suy thoái phẩm chất trong giơí Tăng lữ cũng như các tệ nạn hoành hành trong các chùa chiền lúc bấy giờ, ông viết:

“Người tín ngưỡng Phật giáo nước ta hạng trên nhất chỉ tu lấy lợi một mình, mặc kệ đời chẳng thèm nhìn tới; hạng thứ nhì thì mượn cửa chùa làm chốn dung thân dễ dàng qua ngày; hạng dưới nữa thì lại lấy chùa chiền làm chỗ buôn bán kiếm chác, không từ một sự đê hạ, nhơ nhớp nào mà không dám làm… Sự kiếm tiền bằng cách buôn thần bán Phật làm cho người đời ghê tởm…”. Sau khi phân tích các nguyên nhân gây ra tình trạng suy đồi đó, ông đề nghị Tăng sĩ phải: - đoàn kết lại trong một tổ chức Phật giáo toàn quốc; - lao động tự nuôi thân bằng các nghề làm ruộng, công nghệ, giáo dục, y tế; - bỏ hết lối tu học cũ, phải học và thực hành Phật Giáo Nhân Gian; - đóng góp tài lực cải tạo đời sống nhân dân. Sách này ông viết tại chiến khu Việt Bắc và lời lẽ rất gay gắt, thế mà nhà in Đuốc Tuệ ở Hà Nội đang bị Pháp chiếm đóng vẫn dám in và xuất bản ngay, điều đó nói lên sức thu hút nhân tâm của Thiều Chửu18.

Giới Tăng lữ đương thời không thể không suy ngẫm các bài thơ, bài viết cảnh tỉnh người tu Phật của ông, tiêu biểu là những lời lẽ thẳng mà đau trong quyển sách trên. Tấm lòng ưu tư của ông trong việc chấn hưng Phật giáo thể hiện qua các đề nghị đầy tâm huyết sau:

“Tôi mong rằng các nhà tín ngưỡng Phật giáo nên chú ý vào hai sự này cho: 1- Nên gánh vác lấy cái trách nhiệm chỉnh đốn Phật giáo, cải lương Phật giáo. 2- Đừng theo cái lối tín ngưỡng về mặt tiêu cực mà phải gắng sức tiến sang mặt tích cực ngay đi. Làm trái lại thì chẳng đợi người ta phá chùa đuổi sư mà chính ngay Phật giáo tất phải đi dần đến diệt vong vậy”19.

Lời kết

Khi tiếng súng kháng chiến toàn quốc bắt đầu nổ ở Thủ đô, Thiều Chửu phải dẫn mấy chục em của Hội Tế sinh và 9 nhà sư đi tản cư. Từ đây bắt đầu con đường khổ hạnh từ làng Đan Thầm (Thanh Oai, Hà Đông) lên Sơn Tây, sang Phúc Yên rồi từ Vĩnh Yên vượt núi Tam Đảo sang Thái Nguyên. Các em thì bé, đường thì xa, lại thêm đói ăn, bệnh tật, đây là cuộc trường chinh của tình thương yêu. Cuối cùng, đoàn của Thiều Chửu đến được ấp Đồng Tâm, xã Đồng Liên, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên. Thiều Chửu xác định vị trí chiến đấu của mình trong cuộc chiến của toàn dân. Đó là đem tài lực của mình giúp ích cho địa phương ở vùng kháng chiến để góp phần vào sự nghiệp cách mạng giải phóng quê hương khỏi ách thống trị của thực dân Pháp. Ông đã tổ chức cho các thành viên trong đoàn tăng gia sản xuất để tự túc và dành tiền mua thóc đóng công lương và mua công phiếu kháng chiến. Ông lập vườn trẻ giao cho các sư Ni chăm sóc; mở lớp học bình dân xóa mù chữ cho bà con địa phương; ông động viên các sư Tăng cởi cà sa mặc chiến bào. Và trong những năm tháng gian khổ nhưng hào hùng của dân tộc đó, ông vẫn dịch kinh, viết sách góp phần chấn hưng Phật giáo.

Cư sĩ Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha thực sự là tấm gương sáng về lòng yêu nước kết hợp với đạo Thiền.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Đại Đồng, Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha (1902-1954), Nxb Tôn giáo, tái bản 2019.

2. Trần Sáng, Cụ sư Kha, báo Văn nghệ Thái Nguyên số 18 (ra ngày 25-9-2010) và số 19 (ra ngày 10-10-2010).

3. Vũ Tuấn Sán, Thiều Chửu-một gương sáng kết hợp tinh thần yêu nước với đạo Thiền, đăng trong sách Những người lao động sáng tạo của thế kỷ, nhiều tác giả, Nxb Lao động, năm 1999.

4. Nguyễn Hải Hoành, Cư sĩ Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha vị Bồ tát giữa đời thường, báo Văn nghệ, số 19 ra ngày 10 tháng 5 năm 2008.

 


* Trung tâm Nghiên cứu LSPGVN, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam.

1. Đáo tức là (đi) đến. Khẩu hiệu “Ba bát cháo, đáo Tam Đảo” chứng tỏ quyết tâm vượt núi của đoàn.

2. Một loại chảo thành đứng, bằng đồng dùng để thổi nấu như nồi, chảo.

3. Gạo sáo: xay thóc, giã gạo được gạo và cám, trấu. Bán gạo có lãi lại thu được nuôi gà lợn và trấu đun.    

4. Thuốc viên mầu vàng, là loại thuốc chữa sốt rét chủ yếu hồi kháng chiến chống Pháp, rất quý hiếm.

5. Tức thóc công lương, một loại thuế thu bằng thóc từ nông dân lúc bấy giờ.

6. Nguyễn Đại Đồng, Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha (1902-1954), Tự bạch của Thiều Chửu, Nxb Tôn giáo, tái bản 2019, tr. 427-435.

7. Trần Sáng, Cụ sư Kha, báo Văn nghệ Thái Nguyên số 18 (ra ngày 25- 9-2010) và số 19 (ra ngày 10-10-2010).

8. Nguyễn Đại Đồng, Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha (1902-1954), Nxb Tôn giáo, tái bản 2019, trang 433.

9. Thiều Chửu quen biết ông Hoàng Đạo Thúy, lúc đó là Cục trưởng Cục Thông tin liên lạc Bộ Quốc phòng nên ông giới thiệu ba đệ tử của mình là: Trần Việt Quang, Hà Văn Dưỡng, Trần Văn Tuấn vào bộ đội thông tin. Ông Dưỡng và ông Tuấn là liệt sĩ chiến đấu bên Lào những năm 1960, ông Quang về hưu là đại tá, đã mất năm 2003.

10. Nguyễn Đại Đồng, Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha (1902-1954), Nxb Tôn giáo, tái bản 2019, trang 433.

11. Ông Nguyễn Quý Tán, quê huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, giúp Thiều Chửu từ năm 1942, khi đó được ông Kha giao phụ trách đoàn này. Năm 1950, Thiều Chửu giới thiệu ông Tán tham gia kháng chiến ở tỉnh Thái Nguyên. Trước ngày nghỉ hưu, ông Nguyễn Quý Tán là Chánh Văn phòng Bảo tàng Hồ Chí Minh. Đã mất.

12. Nguyễn Đại Đồng, Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha (1902-1954), Nxb Tôn giáo, tái bản 2019, trang 436.

13. Năm 1958, anh Phạm Xuân Đường được phong quân hàm trung úy.

14. Nguyễn Đại Đồng, Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha (1902-1954), Nxb Tôn giáo, tái bản 2019, trang 439, 441.

15. Nguyễn Đại Đồng, Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha (1902-1954), Nxb Tôn giáo, tái bản 2019, trang 307-317.

16. Vũ Tuấn Sán, Thiều Chửu - một gương sáng kết hợp tinh thần yêu nước với đạo Thiền, đăng trong sách Những người lao động sáng tạo của thế kỷ, nhiều tác giả, Nxb Lao động, năm 1999.

17. Sách đã dẫn, trang 26-69.

18. Nguyễn Hải Hoành, Cư sĩ Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha vị Bồ tát giữa đời thường, báo Văn nghệ, số 19 ra ngày 10 tháng 5 năm 2008.

19. TS. Thích Đồng Bổn, Sĩ khí của cụ Thiều Chửu, đăng trong sách Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha (1902-1954), Nxb Tôn giáo, tái bản năm 2019, tr138-147.

 

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 14)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 13)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 12)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 17
    • Số lượt truy cập : 7044126