NHỮNG VẤN ĐỀ LỊCH SỬ, VĂN HÓA LIÊN QUAN ĐẾN
PHẬT GIÁO ĐÀNG TRONG THỜI CHÚA MINH VƯƠNG
ĐINH HỮU CHÍ*
THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP
Hiển Tông Hiếu Minh Hoàng Đế húy là Nguyễn Phúc Chu (1675 - 1725), còn có tên là Túng, con trưởng của đức Anh Tông Nguyễn Phúc Thái và Hoàng hậu Tống Thị Lĩnh. Ngài sinh ngày 18 tháng 5 năm Ất Mão (11-6-1675).
Thuở thiếu thời, ngài rất chăm học, chữ tốt, văn hay, võ giỏi. Ngài được phong là Tả binh dinh Phó Tướng Tộ trường Hầu, làm phủ đệ ở cơ Tả Binh.
Năm Tân Mùi (1691), đức Anh Tông băng, quần thần vâng di mệnh, tôn Nguyễn Phúc Chu làm “Tiết Chế Thủy Bộ chư Dinh kiêm Tổng Nội Ngoại Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự Thái Bảo Tộ Quốc Công”. Bấy giờ ngài mới 17 tuổi. Năm Quý Dậu (1693), sau khi mãn tang, quần thần tấn tôn ngài làm Thái phó Quốc công và dâng tôn hiệu là Quốc Chúa. Từ đấy trong các sắc dụ về nội trị, ngoại giao đều xưng là Quốc Chúa.
Theo gương tiên chúa, ngài áp dụng chính sách chiêu hiền đãi sĩ, cầu lời nói hay, nạp lời can gián, bỏ xa hoa, ít chi phí, nhẹ thuế má, giao dịch, bớt việc hình ngục nên trăm họ không ai là không vui.
Tháng 8 năm Nhâm Thân (1692), vua Chiêm Thành là Bà Tranh, hợp quân, đắp lũy, cướp giết cư dân ở phủ Diên Ninh. Ngài sai Nguyễn Hữu Cảnh đi đánh, bắt được Bà Tranh và bề tôi là Kế Bà Tử cùng thân thuộc là Nàng Mi Bà Ân đem về Phú Xuân. Ngài đổi đất Chiêm Thành thành trấn Thuận Thành. Năm Quý Dậu (1693), ngài đổi đất Thuận Thành làm phủ Bình Thuận, cho Kế Bà Tử làm khâm lý, con của Bà Ân làm đề đốc để xếp đặt mọi việc trong phủ hạt. Ngài buộc họ phải ăn mặc theo phong tục nước Việt để ổn định phần đất mà dân Việt sang khai thác ở Chân Lạp. Năm Mậu Dần (1698), ngài sai Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh kinh lược đất Chân Lạp, chia đất Đông Phố thành hai huyện: lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phúc Long, dựng dinh Trấn Biên (Biên Hòa), lấy xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn (Gia Định), đất đai được mở mang rộng rãi. Ngài cho chiêu mộ những dân phiêu bạt tứ xứ từ Quảng Bình vào để lập ra thôn xã và khai khẩn ruộng đất, còn những người Trung Hoa ở đất Trấn Biên thì lập thành xã Thanh Hà, những người ở đất Phiên Trấn thì lập làm xã Minh Hương. Những người này đều thuộc sổ bộ nước ta.
Năm Kỷ Mão (1699), Nặc Thu nước Chân Lạp, cho quân lính cướp bóc dân buôn. Ngài sai Nguyễn Hữu Cảnh đem quân đánh dẹp, Nặc Thu xin hàng và nộp cống như cũ.
Năm Ất Mão (1705) Nặc Thâm, con Nặc Thu, nối ngôi cha bất hòa với Nặc Yêm (vua thứ hai của Chân Lạp), nhờ Xiêm La giúp, đem binh đánh Nặc Yêm. Nặc Yêm chạy sang Gia Định cầu cứu, ngài sai tướng Nguyễn Cửu Vân đem binh đánh tan quân Xiêm. Tuy vậy, việc nước Chân Lạp vẫn chưa yên. Vào các năm Tân Mão (1711) và Giáp Ngọ (1714) Nặc Thâm lại vây đáng Nặc Yêm. Ngài phải cho các tướng Trần Thượng Xuyên, Nguyễn Cửu Phú đem quân đánh dẹp rồi phong cho Nặc Yêm làm vua Chân Lạp và giúp cho Nặc Yêm khí giới để phòng ngự.
Về mặt Bắc, tuy đã thôi đánh nhau với quân Trịnh, ngài vẫn lo phòng ngự cẩn thận. Năm Tân Tỵ (1701), ngài sai Chưởng dinh Nguyễn Phúc Diệu, cùng Tống Phúc Tài, Nguyễn Khoa Chiêm sửa sang các chinh lũy từ núi Đâu Mâu đến cửa Nhật Lệ. Ngài sai vẽ bản đồ những nơi hiểm yếu và cho quân lính thao dượt thường xuyên.
Bấy giờ, biên thùy phía Bắc đã giữ vững, về phía Nam đất đai được khẩn hoang đến tận biên giới Chân Lạp. Trong nước việc nội trị, võ bị, giáo dục được phát triển có qui mô. Thấy Bắc Hà tuy có vua Lê nhưng quyền bính ở trong tay chúa Trịnh. Ngài muốn tách riêng miền Nam thành một nước độc lập. Ngài sai Hoàng Thần và Hưng Triệt đem quốc thư và cống phẩm sang Trung Hoa cầu phong nhà Thanh. Vua Thanh cũng có ý muốn phong nhưng triều thần can rằng: “Nước Quảng Nam hùng trị một phương, Chiêm Thành, Chân Lạp đều bị thôn tính, sau tất sẽ lớn. Tuy nhiên nước An Nam còn có nhà Lê ở đó, chưa có thể phong riêng được”. Do đó việc cầu phong không có kết quả.
Năm Nhâm Ngọ (1702) ở biển phía Nam có giặc biển người Anh đến cướp phá, chiếm cứ đảo Côn Lôn. Đồ đảng hơn 200 người và 8 chiến thuyền, xây dựng sào huyệt kiên cố. Ngài sai Chưởng dinh Trấn Biên Trương Phúc Phan tìm cách trừ khử bọn cướp. Sau nhờ mộ được 15 người Chà Và (Java) làm kế nội ứng, đốt tan được sào huyệt của giặc, tịch thu của cải đem về.
Năm Mậu Tý (1708), Mạc Cửu người Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông, trước đó đến khai thác vùng đất Hà Tiên, dâng thư lên triều đình xin đất Hà Tiên qui thuộc miền Nam. Ngài nhận lời và phong cho Mạc Cửu làm Tổng binh trấn giữ đất Hà Tiên.
Tháng giêng năm Kỷ Sửu (1709), phò mã Tống Phúc Thiệu cùng cai đội Nguyễn Cửu Khâm mưu phản, ngầm liên kết vây cánh, mưu đồ đánh chiếm Bình Khang, Phú Yên xong quay về lấy Quảng Nam rồi thẳng đến Chính dinh phóng lửa nổi loạn. Âm mưu bị bại lộ, các người chủ mưu đều bị giết. Tống Phúc Thiệu bị bãi làm thứ dân và bị tù ở vườn Bát Khải.
Tháng chạp năm Kỷ Sửu (1709), ngài cho đúc Quốc bảo. Ấn khắc chữ: “Đại Việt Quốc Nguyễn Chúa Vĩnh Trấn Chi Bảo”, để dùng và truyền từ đời này sang đời khác. Thấy nước giàu mạnh, ngài có ý muốn Bắc phạt. Ngài cho thám tử ra thăm dò tình hình miền Bắc, sau được tin báo về là Bắc Hà chưa thể đánh được, ngài mới không nhắc đến chuyện này nữa.
Trong thời gian trị vì, ngài đóng góp rất nhiều công lao trong việc xây dựng kỷ cương Phật giáo, trùng tu chùa chiền và quảng bá đạo Phật khắp nước. Năm Giáp Tuất (1694) ngài sai người sang Quảng Đông mời Hòa thượng Thích Đại Sán (tức Thạch Liêm Hòa thượng) sang thuyết pháp về đạo Phật cho quan lại và dân chúng nghe. Hòa thượng đã tổ chức giới đàn để truyền giới bồ tát cho ngài và quyến thuộc, quan lại và 1.400 tăng ni ở Phú Xuân. Ngài được ban pháp danh là Hưng Long, hiệu là Thiên Túng đạo nhân. Năm Canh Dần (1710), nhân ngày Phật đản, ngài cho đúc chuông chùa Thiên Mụ nặng 3.285 cân (2.021 kg), cao 2,5 m, đường kính 1,2m. Ngài thân làm bài minh khắc vào chuông. Tiếng vang của Đại hồng chung bao trùm cả kinh thành, không những đánh tan niềm trần tục mà còn lắng đọng trong lòng mọi người. Ca dao đã truyền tụng:
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương
Năm Giáp Ngọ (1714) ngài giao cho Chưởng cơ Tống Đức Đạt sửa sang chùa Thiên Mụ. Tất cả thợ khéo các nơi đều được huy động, chùa trở nên xinh đẹp và nguy nga hơn trước. Lễ khánh thành là ngày hội của dân chúng, những kho lúa của nhà nước được mở rộng để chẩn cầp cho dân nghèo.
Không những mộ đạo Phật, ngài cũng là người rất trọng đạo Nho. Lúc mới lên ngôi, ngài đã cho sửa sang Văn Miếu ở làng Triều Sơn. Văn học và thi cử được ngài chú trọng. Ngài đã cho tổ chức các khoa thi trong phủ Chúa. Trong các chúa Nguyễn, ngài là người mến chuộng thơ văn hơn cả. Ngài đã để lại nhiều tác phẩm văn chương có giá trị
Năm Nhâm Thìn (1712), ngài cho lập phủ mới ở làng Bát Vọng, huyện Quảng Điền.
Trong thời ngài, có hai chuyện mà mọi người thường nhắc nhở là ngài đã sai quan Nội tán Nguyễn Khoa Đăng dẹp bọn cướp ở truông nhà Hồ (rừng Hồ Xá, Quảng Trị) và phá tan những ngọn sóng thần nguy hiểm ở phá Tam Giang[1]. Ngày 21 tháng 4 năm Ất Tỵ (91-6-1726) ngài băng, ở ngôi 34 năm, thọ 51 tuổi.
Tóm lại, Đức Hiển Tông Hiếu Minh Hoàng Đế thường được gọi là Minh Vương là vị chúa Nguyễn thứ sáu ở miền Nam. Trong 34 năm trị vì, ngài thực hiện được nhiều công việc quan trọng:
- Việc nội trị, giáo dục và thi cử được phát triển có qui mô.
- Binh lực hùng mạnh, được các lân bang nể sợ.
- Mở mang bờ cõi đến tận biên giới Chân Lạp, lập thêm các phủ Bình Thuận và Gia Định. Chiêu mộ những người nghèo khổ đưa đi khai khẩn những vùng đất mới, lập thành làng, xã, làm cho miền Nam ngày càng phồn thịnh.
- Dân chúng được sống ấm no hạnh phúc.
Ngoài ra, ngài là người thông suốt kinh sử, giỏi thi văn. Bút tích của ngài còn lưu lại nhiều nơi ở đất Thần kinh.
LĂNG, MIẾU THỜ VÀ CÁC TƯỚC HIỆU ĐƯỢC TRUY TÔN
Ngài mất, lăng táng tại làng Kim Ngọc (Hương Trà, Thừa Thiên). Tên lăng là Trường Thanh. Đến đời vua Gia Long, ngài được thờ tại Thái Miếu, án thứ ba bên tả. Thế tử lên ngôi, dâng thụy hiệu là: “Đô Nguyên Súy Tổng Quốc Chính Khoan Từ Nhân Thứ Tộ Minh Vương”. Đến đời Vũ Vương, ngài được truy tôn: “Anh Mô Hùng Lược Thánh Văn Tuyên Đạt Khoan Từ Nhân Thứ Hiếu Minh Vương”. Vua Gia Long truy tôn: “Anh Mô Hùng Lược Thánh Văn Tuyên Đạt Khoan Từ Nhân Thứ Hiếu Minh Hoàng Đế”. Miếu hiệu là Hiển Tông.
* Chi hội Sử Trịnh Hoài Đức - Hội KHLS TPHCM
[1] Ca dao còn truyền tụng đến bây giờ: “Yêu em anh cũng muốn vô / Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang! - Phá Tam Giang ngày rày đã cạn / Truông nhà Hồ Nội tán cấm nghiêm”.
Bình luận bài viết