NI GIỚI KHẤT SĨ NÉT ĐẸP VĂN HÓA
CỦA MỘT TÔN GIÁO MỚI
ĐINH THỊ HỒNG - 丁氏红*
(SC Thích Nữ Liên Hằng)
Ni trưởng Huỳnh Liên dẫn đoàn đi khất thực
Phật giáo xuất hiện đầu tiên tại Ấn Độ và sau đó được truyền bá rộng rãi khắp các nước trên thế giới đến nay đã trải qua hơn 25 thế kỷ. Phật giáo du nhập đến quốc gia nào đều tạo nên nét đẹp văn hóa Phật giáo độc đáo của nước đó. Chính vì thế đến thế kỷ XX tại Việt Nam sự xuất hiện của Ni trưởng Huỳnh Liên – Ni giới hệ phái Khất sĩ đã góp phần tạo nên nét văn hóa Phật giáo Việt Nam vô cùng mới lạ độc đáo. Ni giới Khất sĩ - sự kết hợp hài hòa giữa hai nền văn hóa Phật giáo Ấn Độ với văn hóa Việt Nam. Phật giáo đã thấm sâu vào văn hóa Việt Nam, trở thành một phần văn hóa Việt Nam đa bản sắc dân tộc.
1. Sơ lược sự hình thành của Ni giới Khất sĩ
a. Đôi nét sơ lược Ni trưởng Huỳnh Liên
Mỹ Tho - Tiền Giang nơi đây vùng đất thiên sinh ra biết bao anh hùng hào kiệt vì nước thương dân. Ngày nay là khu trung tâm đô thị, nằm ven bờ sông Tiền và là đầu mối giao lưu quan trọng, nằm tiếp giáp giữa vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và đồng bằng sông Cửu Long. Con người hiền hòa với nếp sống sinh hoạt đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Nơi đây chính là quê hương của Ni trưởng Huỳnh Liên hiện thân của một vị Bồ tát với chí nguyện phục vụ đạo pháp và dân tộc.
Ni trưởng Huỳnh Liên, thế danh Nguyễn Thị Trừ, sinh 1923 tại làng Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền Giang). Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Vận. Thân mẫu là cụ bà Lê Thị Thảo. Gia đình vốn có truyền thống theo Nho giáo và Phật giáo, sống đời đạo đức hiền lương, sanh hạ 5 người con gái. Ni trưởng là con gái đầu.
Ni trưởng lúc nhỏ vốn sẵn thông minh học đâu tiếp thu nhanh đến đó, lại thêm tính tình điềm đạm ôn hòa lúc nào cũng nổi trội hơn hẳn so với các bạn đồng trang lứa. Túc duyên xưa sâu dày tuy còn bé nhỏ đã biết theo bà ngoại tập hạnh chay trường và bắt đầu thích đọc sách thánh hiền đặc biệt sách Phật giáo1.
Năm 16 tuổi tốt nghiệp bằng trung học, vì vâng lời cha với quan điểm con gái không cần học nhiều. Ni trưởng đành rời ghế nhà trường, nhưng với tinh thần luôn cầu tiến ham học, Ni trưởng ngày ngày theo học chữ Nho với bà ngoại Sáu, học Pháp văn, thi phú với cậu ruột Lê Qúy Đàm. Với tài văn chương bẩm sinh Ni trưởng bắt đầu sáng tác, viết văn làm thơ phản ánh đời sống hiện thực đồng thời thể hiện ý nguyện của cô thiếu nữ mong thoát tục cứu đời. Cũng trong khoảng thời gian này Ni trưởng càng tập trung nghiên cứu giáo lý Phật Đà nhiều hơn như hiểu - cảm thương về thân phận nữ nhi ở trong trần. Trong lòng luôn thao thức, ước mơ về một phương trời xa xôi, lại thêm cảnh chiến tranh đang diễn ra trên khắp mọi nẻo đường quê hương. Ni trưởng mong sao đem hết tâm nguyện cứu độ tha nhân.
b. Sự xuất hiện của giáo hội Liên Hoa
Tổ sư Minh Đăng Quang trải qua thời gian sau khi đắc đạo. Năm 1946, Ngài được thỉnh về trú ngụ tại Linh Bửu Tự - Phú Mỹ - Mỹ Tho. Tại nơi đây Tổ sư Minh Đăng Quang đăng đàn thuyết pháp giảng đạo cho quần chúng nghe. Trong số thính chúng nghe pháp có hai bà cháu Ni trưởng, sau nhiều lần đến nghe pháp học đạo. Hình ảnh đức Tổ sư Minh Đăng Quang với thân tướng thật quá trang nghiêm thoát tục, trì hạnh Khất sĩ như tái hiện lại hình ảnh đức Phật khi còn tại thế. Những thời pháp trầm hùng, sống động với triết lý vừa uyên thâm vừa dễ hiểu như khai ngộ bừng giác nội tâm của Ni trưởng.
Ngày mùng 1 tháng 4 năm 1947, nhân duyên chín mùi, lòng mong muốn được xuất gia nối gót theo Tổ sư, một lần sau khi nghe xong thời thuyết giảng của Tổ sư. Ni trưởng bước ra quỳ xin Tổ sư cho xuất gia. Đức Tổ sư hỏi: “Tín nữ xuất gia với hạnh nguyện gì?” Ni trưởng thưa: “Bạch đức Tổ sư, con xuất gia với hạnh nguyện làm chiếc thuyền chở chuyên phái nữ”2. Đức Tổ sư khen: “Đó là hạnh nguyện của Bồ tát, chỉ có Bồ tát mới có hạnh nguyện rộng lớn như thế”. Sau khi nói như thế xong đức Tổ sư còn dạy thêm: “Tín nữ về tìm thêm ba vị cùng đi xuất gia”. Ngay hôm sau Ni trưởng cùng ba bạn đồng hành được Tổ sư Minh Đăng Quang chứng minh xuất gia tại Linh Bửu Tự với pháp danh là Huỳnh Liên, Bạch Liên, Thanh Liên, Bửu Liên. Cả bốn vị Ni trưởng đều được Tổ sư truyền thọ giới Pháp y bát Khất sĩ, làm Tỳ kheo ni. Cũng từ giờ phút đó Ni trưởng được Tổ sư Minh Đăng Quang thọ ký làm trưởng tử Ni đồng thời giao cho trọng trách hướng dẫn Ni chúng tu học và hành đạo.
Kể từ Tổ sư chính thức tiếp độ nữ giới xuất gia, giáo hội Liên Hoa được thành lập. Mỗi vị ni xuất gia đều được đặt bắt đầu bằng chữ Liên. Liên Hoa là hoa sen trong triết lý Phật giáo nghĩa là sự giác ngộ, sự trong sáng đạt được khi thoát khỏi bùn nhơ vô minh. Ni trưởng Huỳnh Liên được ví đóa hoa sen vươn lên khỏi hồng trần tỏa hương thơm cho đời, là trái tim nhân từ bác ái hóa độ chúng sanh. Hoa sen còn là tượng trưng cho tấm lòng hướng thiện, một lòng tu học hành trì theo giáo pháp của đức Phật. Mỗi vị ni xuất gia như một lần nữa được tái sanh trong giáo hội Liên Hoa - ngôi nhà chánh pháp, đồng thời luôn nhắc nhở chí nguyện xuất gia cao đẹp của tự thân. Ngoài ra hoa Sen còn là Quốc hoa của Việt Nam, mang đậm nét truyền thống văn hóa lâu đời của dân tộc ta qua câu ca dao:
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn3.
Hoa Sen không chỉ là loài hoa đẹp, mà còn là biểu tượng trong tâm thức người Việt, là biểu tượng của nhân cách người Việt. Là loài hoa duy nhất hội tụ nhiều ý nghĩa triết lý văn hóa tâm linh của dân tộc Việt. Giáo hội Liên Hoa là một sự kết nối nhuần nhuyễn giữa tư tưởng Phật giáo với văn hóa truyền thống dân tộc. Từ đó về sau chữ Liên trở thành nét văn hóa tiêu biểu đầy ý nghĩa đặt tên cho mỗi vị Ni Khất sĩ như mới thọ giới lên y sa di thì chữ Liên được đặt đầu như Liên Nguyệt, Liên Khôi, Liên Thuận, Liên Hằng... sau khi thọ tỳ kheo thì chuyển chữ Liên ra phía sau thành Nguyệt Liên, Khôi Liên, Thuận Liên, Hằng Liên chính thức bước vào hàng sa môn Thích tử.
Giáo hội Liên Hoa mặc dù dưới sự lãnh đạo của Tổ sư Minh Đăng Quang nhưng trực tiếp hướng dẫn chúng Ni tu học là Ni trưởng Huỳnh Liên theo phương châm của Tổ sư đề ra: “Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam, nối truyền Thích Ca chánh pháp”4. Người Khất sĩ phải hội tụ ba yếu tố: Thân giáo, khẩu giáo, ý giáo miên mật cùng giới - định - tuệ. Ni trưởng Huỳnh Liên hội đủ các yếu tố này trở thành tấm gương ngời sáng cho chư Ni noi theo. Chư Tăng chư Ni đều có trú xứ riêng biệt, sinh hoạt riêng biệt. Chủ trương trở về nếp sống tu tập như thời đức Phật còn tại thế. Sáng ra hình ảnh chư Ni - Giáo hội Liên Hoa với những chiếc y vàng phất phơ do Ni trưởng dẫn đoàn đi khất thực, mỗi ngày chỉ ăn ngọ trưa, thuyết pháp giảng kinh điển, buổi tối tham thiền nhập định, ngủ nghỉ không quá sáu tiếng, không trú ngụ cố định một nơi nào , không có của cải vật chất nào khác ngoài tấm áo vàng che thân và một bình bát để khất thực nuôi thân. Trong mưa nắng, trong sương gió, làng mạc hay phố thị, rừng núi hay đồng hoang đều có dấu chân của Ni Trưởng Huỳnh Liên cùng Giáo hội Liên Hoa - những người con gái của dòng họ Thích. Phất lên ngọn cờ thuyết giảng về đạo lý cứu khổ, dấn thân đem đạo vào đời, đời sống thanh tịnh và tự mình nêu gương sáng về hạnh nguyện của một vị bồ tát.
Vì mến mộ một lối tu tập thanh cao giải thoát, không tiền tài vật chất, không gia đình…tất cả như in sâu trong lòng dân chúng hình ảnh chư Ni đầu trần chân đất đắp y mang bát đi khắp đó đây thuyết pháp giảng đạo. Chính vì thế mỗi ngày có thêm nhiều hành giả phát tâm xuất gia, thiện nam tín nữ ngày càng thêm đông. Điều đó cho thấy hương đức hạnh từ Ni trưởng Hùynh Liên được ví như hương thơm của hoa sen cho dù ngược gió vẫn tỏa hương khắp bốn phương. Đức Phật từng dạy rằng: “Đạo của ta là đến để mà thấy, thấy để mà thực hành”5. Quả thật như vậy, hình ảnh giáo hội Liên Hoa là một hình ảnh những vị chân trần đang thực hành hạnh Như Lai thật sống động thiết thực.
Năm 1948 - 1954, dưới sự hướng dẫn của đức Tổ sư, đoàn lữ hành giáo hội Liên Hoa chuyển mình từ Mỹ Tho Tiền Giang các các tỉnh miền Tây lên Sài Gòn Chợ Lớn Gia Định và các tỉnh miền Đông như Bà Rịa - Vũng Tàu vv. Mỗi nơi có bóng dáng màu Huỳnh y đi qua là nơi đó có ngọn đuốc tuệ soi đường, mọc lên tịnh xá - ngôi nhà chánh pháp tâm linh. Năm 1954, sau khi Tổ sư Minh Đăng Quang vắng bóng, Ni trưởng Huỳnh Liên trực tiếp lãnh đạo giáo hội Liên Hoa, cống hiến hết mình cho đạo pháp và dân tộc. Ni trưởng chèo lái giáo hội Liên Hoa với chí nguyện “Nối Truyền Thích Ca Chánh Pháp” đồng thời tham gia nhiều công tác xã hội trong công cuộc đấu tranh vì hòa bình cho đất nước, làm rạng danh đậm chất văn hóa người con gái đồng bằng Nam bộ.
Nguyện xin hiến trọn đời mình
Cho nguồn đạo pháp cho tình quê hương6
Con đường giáo hóa của Ni trưởng Hùynh Liên thật vô cùng gian nan và khó khăn, nhưng với lòng bi mẫn rộng sâu, tinh thần bình đẳng triệt để và một ý chí dũng mãnh vô song, Ni trưởng Hùynh Liên đã tùy theo căn cơ của mọi người mà dùng nhiều phương tiện thiện xảo giáo hóa, như một bậc y vương đã tùy bệnh mà cho thuốc, đã hoàn thành sứ mạng thiêng liêng một cách viên mãn. Suốt cả con đường, đôi lúc đi một mình, lắm khi cùng đại chúng, từ làng mạc, rừng núi đến miền trung xa xôi, ở xã thôn nghèo khổ đến phố thị phồn hoa. Ni trưởng đều có mặt và đưa tất cả trở về với giáo pháp chơn như, giáo pháp của từ bi, tự do, dân chủ, bình đẳng, giải thoát.
Ngày 11 tháng 1 năm 1958, được Bộ Nội Vụ chế độ miền Nam trước đây) cho thành lập Giáo hội Khất sĩ Ni giới Việt Nam. Thật hạnh phúc thay từ một cây nở nhiều nhánh, từ một nhánh nở trăm bông. Tư tưởng triết lý này thật đúng với Tổ sư Minh Đăng Quang, từ con đường tu tập của Ngài hình thành nên Tăng đoàn với Ni đoàn, tỏa khắp nơi nơi. Ni giới Hệ phái Khất sĩ ngày càng phát triển lớn mạnh khắp các miền Bắc - Trung - Nam. Như vậy giáo hội Liên Hoa là tiền thân của Ni giới hệ phái Khất sĩ. Nay trở thành đóa hoa tươi thắm trong lòng Phật giáo Việt Nam.
2. Ni giới Khất sĩ nét đẹp văn hóa kết hợp giữa Việt và Ấn
a. Văn hóa Ấn Độ - pháp phục thời đức Phật
Trang phục là thể hiện văn hóa bản sắc của mỗi quốc gia dân tộc. Pháp phục của người xuất gia nói lên tầng ý nghĩa văn hóa của Phật giáo. Pháp phục thời Đức Phật luôn cho chúng ta gợi nhớ liên tưởng đến đất nước Ấn Độ cổ đại có một nền văn minh lâu đời. Đức Phật trên con đường giáo hóa chúng sanh đã dung hòa kết hợp tạo nên văn hóa pháp phục thích hợp với lý tưởng giải thoát của người xuất gia. Qua đây chúng ta càng hiểu rõ hơn về văn hóa bản sắc của Phật giáo Ấn Độ. Đức Phật sau khi phát nguyện đi tìm con đường giải thoát, Ngài đã lánh xa tất cả hào nhoáng ở thế gian, sống một đời sống thanh bần đơn giản với với ba y một bình bát thong dong tự tại trên mọi nẻo đường. Pháp phục thời đức Phật được chia làm ba loại y đó là Tăng già lê, hai là Uất đa la tăng, ba là An đà hội:
1. Tăng già lê còn gọi là ca sa, đại y, đều chỉ cho ca sa của đức Phật và chư tỳ kheo. Y nầy đa phần là những mảnh vải vụn, màu hoại sắc, có khuynh hướng theo sắc vàng được đức Phật chư tỳ kheo nhặt từ nghĩa địa về hoặc được thiện nam tín nữ dâng cúng, những mảnh vải nhỏ được khâu lại thành như thửa ruộng hình chữ nhật. Đức Phật gọi là: “Phước điền y”7, là thửa ruộng để chư thiên loài người gieo trồng phước đức đồng thời nhắc nhở người hành giả luôn nhớ chí nguyện xuất gia của mình. Người Ấn Độ cổ đại có truyền thống văn hóa khi đến gặp các vị tiền bối trưởng lão hay đến những nơi linh thiên thường mặc áo để trần vai phải vừa trang nghiêm vừa thể hiện sự tôn kính. Cho nên pháp phục Phật giáo cũng có phần ảnh hưởng. Đức Phật khi ở tịnh xá thì đắp y chừa cánh tay phải và khi đi khất thực hay đi ra ngoài thì thì đắp kiểu y trùm còn gọi là y lum. Pháp phục thời đức Phật vừa có sự sáng tạo vừa trực tiếp kế thừa truyền thống văn hóa của Ấn Độ.
2. Uất đa la tăng với hình dáng như cái áo không có ống tay được dùng che phần trên. Mặc từ vai đến quá đầu gối, che vai trái nhưng để trống vai phải và cánh tay phải được gọi là “y choàng ngoài” hay “y vai trái”. Cho thấy văn hóa pháp phục Phật giáo Ấn Độ rất ấn tượng đơn giản không cầu kỳ theo tinh thần giải thoát tạm đủ che thân.
3. An đà hội tức là quần không ống, mặc từ thắt lưng xuống đến mắt cá, thường dùng để che phần thân dưới. Văn hóa pháp phục nầy được đức Phật cùng Tăng đoàn của Ngài sử dụng trở thành vật dùng cần thiết cho đời sống phạm hạnh.
Trên đây là ba loại pháp phục mà Đức Phật khi còn tại thế sử dụng. Y và bát là hạnh tu Khất sĩ kế thừa truyền thống chánh pháp chơn truyền của chư Phật trong quá khứ. Người xuất gia một khi thọ lãnh y bát là hành trì theo giới luật hướng tâm và đồng thời thực hành đời sống thiểu dục tri túc thanh cao mà giải thoát. Ngoài ra từ đây y và bát trở thành nét văn hóa đặc trưng của Phật giáo Ấn Độ lúc bấy giờ.
b. Pháp phục Ni giới Khất sĩ - sự kết hợp văn hóa độc đáo
Tổ sư Minh Đăng Quang với tôn chỉ: “Nối truyền Thích Ca Chánh Pháp” lập nên đạo Phật Khất sĩ Việt Nam tiếp Tăng độ Ni giáo hóa đầy đủ tứ chúng: Tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di. Bên Tăng Tổ sư cho thành lập Giáo hội Tăng già Khất sĩ, bên Ni thành lập Giáo hội Liên Hoa Khất sĩ, nay là Ni giới Khất sĩ Việt Nam. Sự xuất hiện của Ni giới Khất sĩ được xem là một dấu ấn vàng son, tô điểm thêm cho nét văn hóa dân tộc và đặc biệt góp phần kết hợp phát huy nét đẹp văn hóa Phật giáo trong ngôi nhà chung giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Sự kết hợp phát huy nét văn hóa độc đáo nầy chúng ta không thể không nói đến văn hóa y bát, pháp phục của Ni giới Khất sĩ. Ni giới nối gót Tổ sư thực hành giới luật y bát - nối truyền Thích Ca Chánh Pháp, học hạnh thanh bần đơn giản ba y một bình bát mà hệ phái Khất sĩ dùng với tên gọi dễ hiểu: Y thượng, y trung, y hạ. Ba y nầy luôn cùng một màu vàng theo Phật Tăng xưa.
1. Tăng già lê được Tổ sư Minh Đăng thay thế bằng tên gọi là y thượng hoặc là y bá nạp. Theo luật nghi của hệ phái Khất sĩ quy định y này thường dùng vải cũ hoặc vải vụn khâu lại, lấy màu vàng làm chủ đạo. Tỳ kheo ni Khất sĩ chủ trương dùng Y bá nạp, thức soa, sa di ni dùng vải nguyên, thêu bìa dọc dài 0m10, bìa ngang 0m15 (là 3mx2m)8, khi đi ra đường phải mặc y vấn tràng. Qua đây cho thấy văn hóa pháp phục - y bá nạp của Ni giới Khất sĩ đã hoàn toàn giống với truyền thống văn hóa thời đức Phật còn tại thế. Nhưng điểm nổi bật có sự cách tân vô cùng độc đáo đó là cách thức đắp y, vấn y của Ni giới hệ phái Khất sĩ có sự khác nhau. Chính điểm nhấn nầy khi nhìn vào chúng ta có thể phân biệt được chư Tăng, chư Ni. Cách vấn y của Ni giới Khất sĩ lại có nét đặc trưng hoàn toàn khác với Ni giới Bắc tông hay Nam tông, một sự kết hợp sáng tạo vô cùng thẩm mỹ giữa văn hóa truyền thống Ấn Độ với văn hóa truyền thống Phật giáo Việt Nam.
2. Uất đa la tăng được thay thế bằng từ y trung. Y trung với hình dáng khi đức Phật còn tại thế thì chủ yếu phù hợp với chư Tăng dùng mà thôi. Văn hóa của người Việt Nam thời xưa, người nữ phải ăn mặt kín đáo, khi xuất gia vấn đề này càng được chú trọng. Chính vì thế Tổ sư Minh Đăng Quang cho dùng chiếc áo truyền thống của Việt Nam nhưng có sự cách tân phù hợp với chư Ni Khất sĩ, theo luật nghi Khất sĩ quy định: “Y trung Ni lưu bề dài 1m, bề ngang (kích) 0m70, tay 0m85, ống tay 0m20, đính, lai, bâu, 0m02, nút quai thắt, phải có may xương sống và vai vuông”. Y trung này có cổ đứng, phần trên giống chiếc áo vạt hò - văn hóa của miền Tây Nam Bộ thuở xưa, phối hợp với chiếc áo dài truyền thống của dân tộc Việt, qua đó cách tân tạo nên chiếc áo dài độc đáo, nay trở thành pháp phục của Ni giới Khất sĩ. Như vậy cho thấy y trung - chiếc áo dài của Ni giới Khất sĩ đã được phát huy một cách sáng tạo độc đáo có giá trị lớn về mặt văn hóa dân tộc. Một hình dáng hoàn khác biệt với hình dáng y trung của Phật giáo Bắc tông và Phật giáo Nam tông. Chính sự khác biệt này góp phần tạo nên giá trị văn hóa Phật giáo Việt Nam và và giá trị văn hóa Phật giáo thế giới. Triết lý tùy duyên ứng biến của đức Phật được Tổ sư Minh Đăng Quang ứng dụng thực hành, tiếp biến chiếc áo dài từ đây trở thành văn hóa pháp phục truyền thống cho Ni giới hệ phái Khất sĩ Việt Nam.
3. An đà hội được hệ phái Khất sĩ gọi là y hạ - chăn với quy định Ni Khất sĩ: “Bề dài 2m, bề ngang 1m, may dính lại, thành ra vuông vức 1m2. Bìa trên 0m10, bìa dưới 0m05, mặc dún rút, từ thắt lưng đến ngang mắt cá cổ chơn”9. Y hạ của Ni giới Khất sĩ hoàn toàn giống với y hạ thời đức Phật, kế thừa văn hóa pháp phục Phật giáo Ấn Độ. Như vậy văn hóa pháp phục Ni giới Khất sĩ xuất phát từ y trung - chiếc áo cách tân kết hợp với y hạ - chăn truyền thống tạo nên bộ pháp phục vô cùng độc đáo mới lạ. Một nét văn hóa pha trộn giữa Việt và Ấn mà khi nhìn vào ta sẽ không nhầm lẫn với bất kỳ tông phái khác. Sự xuất hiện của Ni trưởng Huỳnh Liên cùng giáo hội Liên Hoa mở ra cho Ni giới Phật giáo Việt Nam một trang sử mới thật vô cùng ý nghĩa và điều nảy chỉ có ở Phật giáo Việt Nam.
Ngoài ra cũng từ chiếc áo dài truyền thống được Ni trưởng Huỳnh Liên vận dụng với nhiều tầng ý nghĩa. Nếu là người mới bước chân vào đạo theo giới luật phải trải qua đào tạo hai năm tập sự, thì phải mặc áo quần tập sự thời gian nầy thì chiếc áo dài màu lam trở thành chiếc áo giới đối với người mới xuất gia. Đối với người cư sĩ tại gia chiếc áo dài màu trắng10 sẽ là chiếc áo giới. Chiếc áo giới với màu sắc khác khác nhau thể hiện sự tiến bộ theo từng cấp bậc khác nhau đồng thời một khi thọ nhận y bát người hành giả cần phải nỗ lực hành trì giới luật một cách nghiêm mật. Theo giới luật Khất sĩ như vậy chiếc áo dài không đơn thuần là chiếc áo giới bình thường mà trở thành chiếc áo với đầy đủ phẩm hạnh, đại diện cho giới luật người xuất gia, cũng có thể gọi là chiếc áo giải thoát hiện đại11.
Theo tinh thần giới luật Phật chế người xuất gia phải học hành trì tứ y pháp đúng theo truyền thống chư Phật trong quá khứ. Trong luật nghi Khất sĩ, Đức Tổ sư Minh Đăng Quang lại càng quan tâm về pháp phục liên quan mật thiết đến giới luật của người xuất gia đó chính là: “Cấm ăn mặc sái phép Y và Bát. Cấm Ni mặc vải bông, màu. Ai giới hạnh chưa xong phải mặc áo quần tập sự. Cấm dùng Y bát nếu chưa hành đúng giới luật”12. Như vậy cho thấy pháp phục truyền thống của Ni giới Khất sĩ không ra ngoài ý nghĩa của giới luật, thể hiện phẩm hạnh đạo đức người con gái Phật. Thật lành thay Ni trưởng Huỳnh Liên đã hướng dẫn chư Ni Khất sĩ y theo truyền thống cao đẹp nầy, vừa hành trì giới luật nghiêm mật, vừa kế thừa truyền thống chư Phật trong quá khứ với hạnh trì bình khất thực, lại thêm phát huy văn hóa bản sắc dân tộc.
Pháp phục Ni giới Khất sĩ vừa căn cứ theo hình mẫu đức Phật đưa ra vừa y theo sự quy định của Tổ sư Minh Đăng Quang, mang đầy đủ ý nghĩa pháp phục của sự giải thoát như sau đây: 1.Y ca sa; 2. Pháp phục của người tu theo Phật giáo; 3. Pháp phục của người xa rời thế tục; 4. Pháp phục đúng pháp quy định; 5. Pháp phục của người xa lánh lục trần; 6. Pháp phục có khả năng diệt trừ phiền não; 7. Pháp phục như hoa hoa sen không còn nhiễm bùn nhơ; 8. Pháp phục theo màu hoại sắc; 9. Pháp phục của người thực hành hạnh từ bi; 10. Pháp phục theo mô hình thửa ruộng13. Ngoài những pháp phục này, còn có thêm một vài dụng cụ không thể thiếu trong sinh hoạt hằng ngày của Ni giới Khất sĩ đó là: 11 là dụng cụ dùng cho tọa thiền hoặc khi nằm còn gọi là ngọa cụ; 12. Túi đựng bát. Ngày nay đa phần vì lòng tôn kính nên không dùng ca sa để lót ngồi nằm, mà ngọa cụ thường chế tác thành một dụng cụ riêng biệt. Pháp phục không phải là điều tiên quyết nên một người tu, nhưng nó được truyền tải nhiều ý nghĩa tinh thần qua đó giúp người tu khi dùng nó như thế nào? Mới là điều quan trọng. Ni giới Khất sĩ xuất phát từ đạo Phật Khất sĩ Việt Nam - một tôn giáo mới, tuy mới chỉ 70 năm lịch sử nhưng ngày nay lại rất phát triển. Điều đó cho thấy Ni giới Khất sĩ đã đi đúng lý tưởng giải thoát của đức Phật cũng như áp dụng triệt để tôn chỉ của Tổ sư Minh Đăng Quang.
Sự phối hợp bình bát với y thượng - y trung - y hạ, trong đó y thượng và y hạ thể hiện văn hóa truyền thống Phật giáo Ấn Độ. Y trung mang sắc thái văn hóa truyền thống của người Việt Nam. Khi mặc bộ pháp phục này nhìn tổng quan chúng ta thấy pháp phục Ni giới Khất sĩ rất trang nghiêm, thanh thoát nhẹ nhàng thanh bần đơn giản và bên cạnh đó có sự kết hợp hội tụ của hai nền văn hóa lớn Việt Nam - Ấn Độ14. Ni trưởng Huỳnh Liên không những giữ gìn văn dân tộc mà còn hướng dẫn chư Ni Khất sĩ đúng theo phương thức tu tập sinh hoạt như thời đức Phật còn tại thế, tái hiện lại hình ảnh nguyên thủy Phật giáo y bát chơn truyền vô cùng sống động ngay trên đất nước Việt Nam. Thật hạnh phúc biết bao cho tất cả những ai có duyên được sống chung tu học trong giáo hội Liên Hoa.
Tóm lại, có thể nói Phật giáo từ Ấn Độ truyền vào Việt Nam. Sự kết hợp hài hòa giữa hai nền văn hóa Ấn Độ - Việt Nam từ thế kỷ XX đến nay tạo nên luồng sinh khi mới, tiêu biểu là Ni giới Khất sĩ Việt Nam, có thể nói là trong truyền thống Phật giáo Việt Nam nói riêng và Phật giáo thế giới nói chung có hương sắc mới, có hệ thống văn hóa pháp phục cũng như đường lối tu tập rất biệt truyền. Quả thật: “Ni giới hệ phái Khất sĩ không chỉ đơn giản thể hiện văn hóa của người Việt Nam, mà còn thể hiện sự sáng tạo của người Việt Nam, từ đó càng phát huy mạnh tinh thần nhập thế của Phật giáo”15. Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam - một tôn giáo mới với sự góp mặt của Ni giới Khất sĩ đã Việt hóa đạo Phật cùng sự hành trì kế thừa phát huy những giá trị qua nhiều phương diện làm cho Phật giáo Việt Nam ngày càng phát triển.
* Nghiên cứu sinh tiến sĩ trường đại học Nam Kinh (Trung Quốc)
1. https://nigioikhatsi.net/cac-bai-viet-tuong-niem/ni-truong-huynh-lien-cuoc-doi-va-dao-nghiep-phan-1.html
2. Thích nữ Khiêm Liên, Cuộc đời và đạo nghiệp của Ni Trưởng HuỳnhLiên, Nxb. Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, 2016, tr. 408.
3. M. Giang Lân, Tục ngữ và ca dao Việt Nam, Nxb. Giáo Dục, 1999, tr. 78.
4. Tổ sư Minh Đăng Quang, Chơn Lý, chủ đề Phật giáo Khất Sĩ, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2016, tr.733.
5. TS. Lê Văn Tùng, Nghiên cứu triết học tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2016, tr. 230.
6. Ni Trưởng Huỳnh Liên, Kinh Tam Bảo, Nxb. Tôn giáo, Thành phố Hồ Chí Minh, 2017, tr. 36.
7. Đại Tạng Kinh Việt Nam, Tăng Chi Bộ, tập 3, Nxb. Tôn giáo, Thành phố Hồ Chí Minh, 1996, tr. 9.
8. Giáo hội Phật giáo Việt Nam - hệ phái Khất sĩ, Luật Nghi Khất sĩ, Nxb. Thành Phố Hồ Chí Minh, 1998, tr.43.
9. Giáo hội Phật giáo Việt Nam - hệ phái Khất sĩ, Luật Nghi Khất sĩ, Nxb. Thành Phố Hồ Chí Minh, 1998, tr.44.
10. Tổ sư Minh Đăng Quang dùng chiếc áo dài màu trắng là dựa vào kinh “Người Áo Trắng” mà đức Phật thuyết cho cư sĩ tại gia Cấp Cô Độc hành trì 5 giới với 4 pháp quán tưởng nhớ đến Phật - Pháp - Tăng - Giới để đạt được pháp lạc trú trong hiện tại, được gọi là người đệ tử áo trắng. Tổ sư Minh Đăng Quang muốn xây dựng lại hình ảnh này tại Việt Nam, người cư sĩ cũng tinh nghiêm giới hạnh của mình và đồng thời chọn màu trắng làm màu áo cư sĩ, nên ta thấy trong hàng tứ chúng Khất sĩ, hàng cư sĩ tại gia thường mặc chiếc áo dài màu trắng hay còn gọi là “áo giới cư sĩ” là với ý nghĩa như vậy, lại vừa hợp với văn hóa truyền thống người Việt.
11. HT. Thích Trí Quảng, HT. Thích Giác Toàn, Nguyễn Quốc Tuấn, Hệ phái Khất sĩ quá trình hình thành phát triển và hội nhập, Nxb. Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, 2016, tr.591.
12. Giáo hội Phật giáo Việt Nam - hệ phái Khất sĩ, Luật Nghi Khất Sĩ, Nxb. Thành Phố Hồ Chí Minh, 1998, tr. 282.
13. https://phatgiao.org.vn/nguon-goc-va-y-nghia-cua-chiec-ao-ca-sa-d35073.html
14. Đinh Thị Hồng, “Nghiên cứu Minh Đăng Quang với hệ phái Khất Sĩ”, Đại học Nam Kinh - luận văn thạc sĩ, 2019, tr. 44.
15. Giáo sư tiến sĩ Vũ Minh Giang - Chủ tịch Hội đồng khoa học và đào tạo Đại học Quốc gia Hà Nội - Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam phát biểu trong Hội thảo khoa học về Ni trưởng Huỳnh Liên.
Bình luận bài viết