Thông tin

PHẬT GIÁO HOA KỲ

 

THÍCH NỮ THÔNG TIÊN

 

 

Tu viện  Hsi Lai ở trên núi phía bắc Puente Hills, Los Angeles County, California.

 

BỨC TRANH PHẬT GIÁO HOA KỲ

Là một vùng đất mới (Tân thế giới, như cách gọi của nhà thám hiểm Colombus khi phát hiện ra châu Mỹ vào thế kỷ XV), Hoa Kỳ chịu ảnh hưởng tôn giáo của các vương triều thực dân Công giáo châu Âu (Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha). Chính Columbus đã mang Thập tự giá cùng với lá cờ hoàng gia đặt lên vùng đất mới (bây giờ là Bahama, một nước cộng hòa trong vùng Caribe, cách không xa tiểu bang Florida của Hoa Kỳ) khi họ lần đầu tiên đặt chân lên Tân thế giới. Công giáo châu Âu đã theo chân những nhà thực dân châu Âu bám rễ vào châu Mỹ nói chung và Hoa Kỳ nói riêng. Nhưng cũng chính những người Thanh giáo Anh đã mang tinh thần tự do tôn giáo đến Hoa Kỳ khi họ bất mãn với giáo hội Công giáo Anh, rời quê hương (Vương Quốc Anh) đến vùng đất mới - Hoa Kỳ (1620) và tiến hành lập quốc. Chính tinh thần cởi mở của những người ly hương đến vùng đất mới, sau này đã tạo điều kiện cho nhiều tôn giáo khác, trong đó có Phật giáo, phát triển trên đất nước nhiều sắc tộc này và hiện nay Phật giáo là tôn giáo đang phát triển nhanh nhất tại Hoa Kỳ.

A. Phật giáo - Từ xa lạ kỳ thú đến gần gũi, thực tế

Ngày Chủ nhật, gần giờ trưa, ở thành phố náo nhiệt Los Angeles, tiểu bang California, chuông trống Bát Nhã vang lên từ ngôi chùa xưa nhất của Phật giáo trên đất Mỹ, chùa BCA (Buddhist Churches of America) của người Nhật. Thời tụng kinh ngân nga và những bài thuyết pháp gợi cho Richa Hughes Seager (tác giả cuốn sách Buddhism in America-Phật giáo ở Hoa Kỳ) liên tưởng tới những nhà thờ Tin Lành ở Hoa Kỳ. Qua cách thức và thời gian của buổi lễ, chứng tỏ rằng BCA cũng phải biến hóa để thích nghi với dòng chảy xã hội Hoa Kỳ. Sau hơn một trăm năm trên đất nước Hoa Kỳ, BCA đã xoay xở với sự Mỹ hóa mà hầu hết các tôn giáo và cộng đồng sắc tộc phải đối mặt. Seager nói rằng, một người quan sát bình thường nhất cũng có thể thấy sự khác biệt rõ rệt của một ngôi chùa với nhà thờ Tin Lành, đó chính là bàn thờ Phật linh thiêng ngay giữa chánh điện. Ngoài tụng kinh, thuyết pháp, cúng hương linh, BCA cũng như các chùa khác còn tổ chức các buổi mừng sinh nhật cho các thanh thiếu niên sinh hoạt tại chùa. Không khí thân thuộc, thoải mái không mang tính thần học, giáo điều, ép buộc. Đó cũng là cảm nhận chung của người Mỹ về Phật giáo chứ không riêng gì của Seager.

Đây hình như cũng là cảm nhận chung của phương Tây về Phật giáo, có chút khác biệt về cách cảm nhận của người phương Đông. Dĩ nhiên, nền văn minh phương Đông (cụ thể là Ấn Độ) là cái nôi của Phật giáo. Phật giáo được người phương Đông đặc biệt tôn sùng, linh thiêng hóa và Phật tử rất thuần thành. Thậm chí, nhiều người đến với Phật giáo chỉ để bái lạy, cầu xin phước, lộc, tài, danh,… chứ không xem pháp của Phật là một phương pháp để chuyển hóa tâm thức như cách tiếp cận của người phương Tây đối với Phật giáo. Nhưng trải qua hơn hai thiên niên kỷ, chính người châu Á đã diễn giải Phật giáo dưới nhiều góc độ khác nhau. Nhiều người còn hiểu sai lệch. Thậm chí, người ta còn tiếp thu méo mó tư tưởng “tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, là tinh thần của những trật tự không có tinh thần, tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” của Karl Marx để bài xích tôn giáo, tạo ra một thế hệ sống mà chẳng có đạo đức tâm linh. Giá trị nhân văn, giải thoát, giá trị giáo dục tâm linh hướng thượng của Phật giáo bị một số người nơi cái nôi văn minh phương Đông hiểu lệch lạc, méo mó. Ngược lại, phương Tây tiếp thu Phật giáo muộn màng sau hơn phương Đông hai thiên niên kỷ, lại có cái nhìn tích cực hơn về Phật giáo và ứng dụng giá trị giáo dục chuyển hóa của Phật giáo thực tiễn hơn.

Giống như BCA, hầu hết 99% các chùa ở Mỹ đều tổ chức các buổi lễ vào chủ nhật, từ lễ tụng kinh hằng tuần, giỗ kỵ, ma chay cho thân nhân của Phật tử, cho đến các Đại lễ như Vu Lan, Phật Đản đều phải tổ chức vào ngày Chủ nhật, vì các ngày khác trong tuần, mọi người đều đi làm, không tham gia được. Hai ngày Sóc, Vọng (Rằm, Mồng Một) hầu như ít được nghe nhắc đến ở Mỹ, riết rồi người ta cũng không nhớ đến lịch của dân tộc mình, tất cả đều phải vận hành theo cuộc sống mới, và lịch làm việc đương nhiên cũng phải theo.

Chiều Chủ nhật cùng ngày, sau khi đã ở chùa BCA, tối về, nhóm cư sĩ người Nhật tập trung tại phòng khách của một nhà Phật tử, thực tập thiền, cũng bàn thờ Phật chính giữa, cũng xướng tụng đảnh lễ Tam Bảo, rồi tự mình ngồi thiền, không có sự hướng dẫn của người xuất gia. Hàng triệu người Mỹ, không hiểu biết nhiều về Phật giáo, quá quen thuộc với lối thực tập thiền này của người Nhật (Zen).

B. Muôn màu muôn sắc Phật giáo tại Hoa Kỳ

Nhiều người Mỹ cho rằng Zen (Thiền) là một thực tập của Phật giáo mà không cần nghi thức lễ bái, và dĩ nhiên điều đó không đúng. Lúc đầu, nhiều sách viết về Zen đã giới thiệu cho người Mỹ về cách thực tập thiền và họ xem Thiền tập như là triết học, lối sống hơn là truyền thống tôn giáo.

Nói về Thiền thì ở Hoa Kỳ cũng như các nước khác, có rất nhiều truyền thống và cách thức thiền tập khác nhau. Không phải là cứ ngồi tréo chân, nhắm mắt hoặc dán mắt vô tường mới là thiền. Chính phương pháp Thiền Chánh Niệm đơn giản, có thể thực tập mọi lúc mọi nơi (như chú ý cử chỉ và sự di chuyển của tay chân, động niệm của tâm) đã giúp cân bằng cuộc sống của nhiều người Mỹ.

Bên cạnh Zen của Nhật, người Mỹ cũng thực tập thiền Mật Tông Tây Tạng, khó hơn và phức tạp hơn. Cho dù hành thiền trong một trung tâm Phật học sang trọng ở tiểu bang Vermont, hay trong một túp lều tịnh tu, hay ở trên núi, hay trong một căn phòng hội nghị thuê trong khách sạn hay thực tập ở nhà, đều phải đòi hỏi sự kiên trì, nhẫn nại và phải thực tập trong nhiều năm.

Thiền Vipassana (Thiền Minh Sát Tuệ-Thiền Quán) theo truyền thống Theravada cũng được người Mỹ hưởng ứng. Thiền sư Mahasi của Myanmar đã có ảnh hưởng rất lớn đến sự hành trì, thực tập Thiền Quán Vipassana ở Hoa Kỳ. Trong nỗ lực Mỹ hóa Phật pháp, một số Phật tử Hoa Kỳ (cải đạo từ tôn giáo truyền thống) cố gắng tách thiền tập ra khỏi nghi lễ bái sám (như truyền thống Phật giáo châu Á), và xem nghi lễ bái tụng của văn hóa châu Á là một yếu tố không cần thiết. Một số người khác, vẫn duy trì và thực tập theo.

Bên cạnh phong trào thiền tập của các truyền thống trên, Phật giáo Việt Nam, Hàn Quốc, Tích Lan, Campuchia… cũng phát triển nhanh chóng. Trước thế kỷ XIX, đa số Phật tử là người Hoa, nhưng đến 50 năm đầu của thế kỷ XX, trên đất nước Hoa Kỳ, Phật giáo của người Nhật chiếm ưu thế, 50 năm sau của thế kỷ XX lại là giai đoạn phát triển của Phật giáo nhập cư của luồng di dân đến từ các nước châu Á khác (trong đó có Việt Nam).

Một ngày nọ, Seager đến thăm một tu viện ở California (có lẽ là một ngôi chùa theo truyền thống Nam tông - người viết). Một nhóm Phật tử, dân nhập cư châu Á có, Phật tử người bản địa cải đạo có, sau khi tụng kinh sáng xong, xúm xít trong nhà bếp, chuẩn bị thức ăn sáng cho các sư, dâng cơm cho quý sư dùng bữa xong rồi, Phật tử cũng dùng cơm, rồi thầy trò làm lễ, tụng kinh, thuyết pháp. Hầu như cách thức sinh hoạt của chùa đều được Seager quan sát tỷ mĩ, từ việc lạy Phật sát đất, tụng kinh, nấu nướng, dâng thức ăn cho quý sư. Seager đi khảo sát nhiều và tìm hiểu Phật giáo nhiều, thấy hàng cư sĩ đến chùa tu học, làm việc công quả, phụ giúp hàng ngũ xuất gia vận hành ngôi chùa, với ông, đó là điều tất nhiên như con chiên thì phải đi nhà thờ ngày Chủ nhật.

Bản thân những người xuất gia từ nhỏ sống trong cửa chùa, cho dù đi bất cứ nơi đâu, cũng vẫn sống sau cánh cửa chùa nên khung cảnh thiền môn đã là nhà mình, như cá ở trong nước, như chim trong rừng, không có gì xa lạ. Cũng vậy, một ngôi chùa trên đất Mỹ, cũng như ngôi chùa trên bất kỳ đất nước nào khác, sáng sớm sẽ là hoặc tụng kinh, hoặc ngồi thiền, rồi sinh hoạt, làm việc chùa, rồi đám tang, đám giỗ, rồi việc nọ việc kia, rồi tụng kinh tối,... Chưa kể các ngôi chùa Bắc tông phải tự túc làm kinh tế để trang trải bill bọng như bao nhiêu người chủ của những ngôi nhà khác trên xứ sở bận rộn này.

Đó là một ngày bình thường và một lối sinh hoạt bình thường, nhưng với một người Mỹ như Seager, một ngày quan sát cách thức sinh hoạt chốn cửa chùa mang đến cho ông nhiều điều thú vị, khác lạ và không khỏi so sánh với cách thức của các nhà thờ tôn giáo truyền thống của ông. Cũng may, khi đi khảo sát thực tế để viết sách về Phật giáo, ông chỉ đến những chùa lớn và quan sát cặn kẽ những ngôi chùa ‘tiêu biểu’ người ta giới thiệu cho ông, nên cách tiếp cận Phật giáo của ông cũng ‘tiêu biểu’ đúng ‘chuẩn’ như đầu óc người phương Tây nhìn nhận về Phật giáo.

Trong cách nghĩ và qua quan sát của Seager, người xuất gia chỉ biết lo tu tập và hướng dẫn cuộc sống tâm linh, người cư sĩ thì làm đúng bổn phận của người Phật tử tại gia-hộ trì Phật pháp, hỗ trợ mọi mặt nhu cầu vật chất cho hàng xuất gia. Đó chỉ là truyền thống trong kinh luật Phật giáo được Đức Phật chỉ dạy và ngày nay chỉ duy trì ở các ngôi chùa theo truyền thống Nam tông. Bắc tông đã “cách tân” hơi nhiều theo tinh thần tùy duyên bất biến và tinh thần Phật giáo nhập thế, ‘một ngày không làm là một ngày không ăn’. Quả đó là một cái nhìn hơi phiến diện khi nhìn nhận về Phật giáo ở xứ Hoa Kỳ này, khi mà, bao nhiêu người xuất gia nhập cư phải cố gắng trăm ngàn lần để bươn chải nơi xứ người, vừa phải duy trì cuộc sống cơ bản ổn định, vừa phải giữ chiếc áo người tu để làm đạo trên đất khách quê người. Đó là chưa nói đến những thử thách khác về tinh thần. Nói như vậy để thấy rằng, các thế hệ cha ông chúng ta, những người đi tiên phong, đã vất vả biết chừng nào mới cắm được ngọn cờ Phật giáo trên xứ sở cờ hoa này, để thấy rằng sự hy sinh mở đường của các Ngài là quá lớn, cho dù họ là những vị danh tăng tài ba lỗi lạc từ Việt Nam, Myanmar, Tích Lan, hay những cư sĩ từ Nhật, hay những thuyền nhân vượt biển, đến những người tỵ nạn chiến tranh, những di dân tự do. Tất cả họ đã cố gắng duy trì truyền thống Phật giáo mà họ mang theo đến xứ sở này, để rồi hôm nay, trên đất nước Hoa Kỳ, khi nói đến Phật giáo, người ta vẫn dành cho Phật giáo và những người con Phật, tại gia cũng như xuất gia những cảm tình, thiện chí và mến mộ.

C. Phân loại Phật tử tại Hoa Kỳ

Ngày nay, có rất nhiều người Mỹ theo đạo Phật, nhưng cũng có nhiều người Mỹ khác còn xa lạ với Phật giáo và coi đó là một tôn giáo và một lối thực hành của một nhóm người nước ngoài xa lạ. Nhưng cho dù như thế nào, Phật giáo cũng là một phần không thể thiếu trong sự đa dạng văn hóa và đa tôn giáo của xã hội Mỹ. Dưới góc độ lịch sử, Phật giáo Hoa Kỳ đã đánh dấu một bước chuyển thời đại: Một tôn giáo lớn của châu Á đã được truyền vào phương Tây.

Trong vòng bốn trăm năm, các nhà truyền giáo phương Tây, các nhà thám hiểm, học giả, các nhà tìm kiếm đã thăm dò lùng sục châu Á, thắc mắc tò mò về Phật giáo và đã nghiên cứu Phật giáo. Một số ít xuất gia thực hành theo Phật giáo. Nền tảng cho sự truyền bá Phật giáo qua châu Mỹ đã được chuẩn bị trong nhiều thập niên bởi nhiều người nhưng Phật giáo trở thành một yếu tố quan trọng của tôn giáo Hoa Kỳ thì chỉ mới phát triển gần đây thôi.

Nhưng Phật giáo Hoa Kỳ là gì? Suốt những năm 1980-1990, nhiều người Mỹ còn tranh cãi nhau Phật giáo ở Mỹ là Phật giáo gì và họ muốn nó như thế nào. Cuối cùng, họ có rất nhiều ý kiến khác nhau chứ không đơn thuần là chỉ một câu trả lời về việc tạo lập một nền Phật giáo mang sắc thái Hoa Kỳ. Phật tử Hoa Kỳ là ai? Câu hỏi này chỉ có thể trả lời chung chung, bởi vì không có Phật tử đúng nghĩa ở Mỹ. Phật tử ở đây rất đa dạng về sắc tộc, nguồn gốc văn hóa, ngành nghề. Một số người Mỹ rất ý thức và tự hào, tự nhận mình là Phật tử, một số khác thì nghĩ rằng mình là Phật tử theo kiểu ‘ngoại giao’ giao lưu văn hóa.

Nếu từ góc nhìn khác, có thể ‘phân loại’ Phật tử ở Hoa Kỳ ra thành ba:

Một là Phật tử người bản địa (trong khoảng thời gian 50 năm trở lại đây, cải đạo sang đạo Phật). Họ là một phần của phong trào xã hội rộng lớn bắt đầu từ những năm 1940, 1950 tiếp tục cho đến cuối thế kỷ XX. Họ còn được gọi là Phật tử cải đạo, Phật tử người Tây, Phật tử da trắng, nhưng thật tế họ bao gồm cả người châu Phi, châu Á và người Mỹ bản địa.

Nhóm thứ hai là Phật tử nhập cư, tỵ nạn từ những nước châu Á. Sự phát triển của nhóm Phật tử này liên quan đến sự cải cách của Luật nhập cư Mỹ trong những năm 1960. Năm 1965, chính phủ Mỹ thông qua luật nhập cư sửa đổi, dẫn đến sự tăng vọt số lượng người nhập cư đến từ châu Á. Đa số Phật tử Hoa Kỳ là trong những cộng đồng nhập cư châu Á. Phật tử nhập cư đã dạy Phật pháp cho người Mỹ.

Nhóm thứ ba là nhóm Phật tử người Mỹ gốc châu Á, chủ yếu là người Hoa và người Nhật, đã theo Phật giáo bốn, năm thế hệ sinh sống tại Hoa Kỳ. Cộng đồng Phật giáo ở chùa BCA của người Nhật là tiêu biểu. Họ là cộng đồng Phật giáo lâu đời ở Mỹ, mà trong bối cảnh Phật giáo Mỹ, người ta không biết xếp họ vào nhóm nào, người châu Á di dân nhập cư hay là người Mỹ cải đạo. Nhưng họ, như đã nói ở trên, là lực lượng Phật giáo chính trước năm 1900 đến 1950.

Thomas Tweed, giáo sư tôn giáo học của Đại học North Carolina cho rằng chúng ta cần tính đến số lượng lớn người Hoa Kỳ rơi vào nhóm “Phật tử đầu giường” (nightstand Buddhists). Họ là những người thích đọc và nghiên cứu về Phật giáo và bị thu hút bởi những gì họ đọc, một số người thậm chí có thể mô tả mình là Phật tử. Họ là những người cảm mến Phật giáo và chúng ta có thể gọi việc đọc sách đêm (sách gối đầu giường đọc trước giờ ngủ) của họ là “Phật giáo công cộng” hoặc “Phật giáo truyền thông”. (We might describe their nightstand reading as “public Buddhism” or “media Buddhism”)1.

Trong những thập niên cuối của thế kỷ XX, cả Phật tử nhập cư và Phật tử cải đạo ở Hoa Kỳ đã làm nên những cột mốc quan trọng cho Phật giáo, làm cho Phật giáo tỏa sáng và đa dạng hơn. Dĩ nhiên, sự tiếp cận với Phật giáo (tôn giáo có nguồn gốc từ châu Á) của họ có khác do mối liên hệ của họ với Phật giáo và do sự khác nhau về vị trí địa lí của Hoa Kỳ. Nhiều người Mỹ cải đạo sang Phật giáo là do họ tự tìm hiểu, khám phá qua sách vở, sau đó họ đi qua các nước Phật giáo châu Á để học hỏi, nghiên cứu. Một số khác thì tìm thầy học đạo ngay trên đất Mỹ, một điều rất khó khăn vào thời điểm đó.

Những năm 1980, Phật tử cải đạo bắt đầu có tiếng nói hơn khi có những người con cháu của họ sinh ra tại Mỹ bắt đầu trở thành những nhà học giả, nghiên cứu, giảng dạy Phật pháp và lãnh đạo cộng đồng. Cũng thời gian này, Phật tử cải đạo bắt đầu có những phương cách tiếp cận và những hình thức để đem Phật pháp đến những người Mỹ chính gốc, được sinh ra và nuôi dưỡng trong dòng chảy văn hóa Mỹ.

Thời gian này, Phật tử nhập cư cũng thiết lập những hình thức sinh hoạt Phật giáo mới để thích ứng với xã hội Hoa Kỳ. Cũng như Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo một, hai thế kỷ trước, người nhập cư tiếp cận những hình thức phát triển của Phật giáo Hoa Kỳ như là một trải nghiệm của dân nhập cư bên cạnh các vấn đề về kinh tế, văn hóa và ngôn ngữ. Thế hệ những người nhập cư đầu tiên phải vất vả với cơm áo gạo tiền để ổn định cuộc sống mới nơi xứ lạ, lại vừa cố gắng tạo lập truyền thống tôn giáo, văn hóa để truyền đạt, giải thích cho con cháu của họ, những người đang được Mỹ hóa rất nhanh chóng. Rất khó để đánh giá sự đóng góp lâu dài của người nhập cư cho nền Phật giáo Hoa Kỳ vì bản chất của trải nghiệm nhập cư là sự thích nghi xảy ra suốt cả quá trình mấy thế hệ.

D. Số liệu Phật tử Hoa Kỳ

Phật giáo không hề yêu cầu một hình thức cải đạo chính thức nào nên việc thống kê số liệu Phật tử cũng không được rõ ràng.

Có rất ít nguồn thống kê về số lượng Phật tử Hoa Kỳ nhưng cũng đáng để xem xét. Một số liệu thống kê cho rằng số lượng Phật tử khoảng 1 triệu người vào năm 1990, nhưng chỉ vài năm sau đó có nguồn thống kê khác cho rằng số lượng Phật tử Hoa Kỳ vào khoảng 5 hoặc 6 triệu người. Một sự ước tính gần đây có thể coi là sơ sài nhưng cũng đáng để xem xét. Martin Baumann (người Đức) cho rằng có khoảng 3 hoặc 4 triệu Phật tử vào năm 1997, nhưng đa số là những người này từ những nước phương Tây (trong khi đó ở Pháp có khoảng 650,000 Phật tử và ở Anh có khoảng 180,000).

Martin cũng cho rằng số lượng Phật tử cải đạo ít hơn Phật tử nhập cư. Hoa Kỳ trong năm đó có khoảng 2.2 đến 3.2 triệu Phật tử nhập cư nhưng chỉ có 800,000 Phật tử cải đạo (con số này ở Pháp và ở Anh lần lượt là 500,000 với 150,00 người và 130,000 với 50,000 người). Tuy nhiên, tạp chí Time cho rằng trong năm 1997, Hoa Kỳ chỉ có 100,000 Phật tử cải đạo và không hề ước tính số lượng Phật tử nhập cư.

Năm 2010, Trung tâm Nghiên cứu Pew (trụ sở tại Washington DC) xếp Phật giáo là tôn giáo lớn thứ tư tại Hoa Kỳ sau Tin Lành, Công giáo và Do Thái giáo. Pew cho rằng 32% Phật tử Hoa Kỳ là người nhập cư châu Á và 53% là Phật tử người da trắng (bao gồm Phật tử cải đạo và Phật tử được sinh ra tại Hoa Kỳ) và cũng theo Pew, có khoảng 1.2 % dân số Mỹ là Phật tử (Pew thống kê Phật tử Việt Nam là 16.4%). Dĩ nhiên, đó là những dữ liệu thống kê cứng nhắc. Cũng như 16.4% của Việt Nam, nhìn vào thực tế, không ai nghĩ số lượng Phật tử Việt Nam lại chỉ chiếm 16.4% dân số.)

Theo một khảo sát mới đây thì có 12% người trả lời rằng Phật giáo ảnh hưởng quan trọng đến tôn giáo và tinh thần của họ2. Và nếu theo đánh giá này thì số lượng Phật tử Hoa Kỳ phải lên đến 25 triệu người. Nếu cộng số lượng cả ba nhóm (Phật tử, nhóm người nghiên cứu Phật giáo, nhóm người chịu ảnh hưởng của Phật giáo) thì số lượng lên đến 30 triệu.

Như vậy, không có số liệu thống kê chính thức về số lượng Phật tử ở Hoa Kỳ vì đa số những thống kê là do người Mỹ da trắng tiến hành và họ không có sự kết nối với người châu Á nhập cư (chiếm số lượng lớn Phật tử của cộng đồng Phật giáo Hoa Kỳ.

Giáo sư Carl Bielefeldt, người nghiên cứu tôn giáo và Đồng giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Phật giáo của Đại học Stanford, Hoa Kỳ, cho rằng không ai có thể biết được có bao nhiêu triệu Phật tử ở Hoa Kỳ vì không người nào biết ai được coi là Phật tử (No one seems to know just how many millions of Buddhists there are in America, in part because no one has figured out who “counts” as a Buddhist).

Thật ra, chúng ta không cần xác định thông tin chính xác về số lượng Phật tử Hoa Kỳ. Một điều quan trọng và hoan hỷ hơn nhiều, đó là trên thực tế có rất nhiều người Mỹ thực tập Phật pháp dưới nhiều hình thức khác nhau. Họ không thuộc thành viên của chùa, hội nào nhưng họ thực tập Phật giáo ở nhà như ngồi thiền, đọc sách, ăn chay. Và dĩ nhiên, họ không nằm trong số liệu được thống kê. Một điều quan trọng khác, đó là sự quan tâm lớn của độc giả Hoa Kỳ làm động lực thúc đẩy Phật giáo trở thành một ngành học thuật nghiên cứu phát triển nhanh ở Hoa Kỳ.

PHẬT GIÁO DU NHẬP VÀO HOA KỲ

Con đường giải thoát Đức Phật dạy đã được định hình lại qua thời gian và một lần nữa, khi được truyền ra khỏi châu Á, các hình thái uyên nguyên của Phật giáo lại được định hình bởi các cộng đồng Phật giáo năng động ở Hoa Kỳ. Quá trình để giáo pháp thích ứng đến nền văn hóa mới vô cùng cam go phức tạp bao gồm cả việc chấp nhận thực hành tôn giáo ở môi trường mới, sự giao lưu với những ý niệm cũ không liên quan và cải tác những giá trị đã chấp nhận vào ngôn ngữ mới của dân tộc.

Phải mất nhiều thế kỷ thì giáo pháp mới được hoàn toàn bản địa hóa ở một xã hội mới bởi vì công việc đồ sộ của việc dịch thuật đa văn hóa đòi hỏi sự sáng tạo của cá nhân, đồng thời cũng cấp thiết đòi hỏi sự hợp tác của tập thể. Nghiêm túc mà nói, hiện tại Hoa Kỳ có nhiều truyền thống Phật giáo khác nhau chứ không phải có MỘT Phật giáo Hoa Kỳ.

Có hai xu hướng định hình cho sự truyền bá Phật giáo vào Hoa Kỳ và thắp sáng bức tranh Phật giáo Hoa Kỳ. Một là những nhân vật đặc biệt và những sự kiện đặc biệt, giữ phần quan trọng trong việc giới thiệu Phật giáo vào Hoa Kỳ. Họ không chỉ định hình những hình thức quan trọng của Phật giáo Hoa Kỳ mà còn thu hút nhiều người Mỹ cải đạo thành Phật tử với cả lịch sử và dòng tâm linh bản địa. Hai là những người dân nhập cư, đóng vai trò vô cùng quan trọng trong lịch sử tôn giáo Hoa Kỳ nói chung và Phật giáo Hoa Kỳ nói riêng. Trải qua thời gian, họ đã ổn định được cộng đồng, tôn giáo truyền thống của họ trên đất nước mới, và đã, đang làm thay đổi bối cảnh tinh thần, chính trị và dân tộc ở Hoa Kỳ. Tìm hiểu người nhập cư hoạt động như thế nào trong quá khứ giúp chúng ta có hiểu biết sâu sắc Phật giáo nhập cư có thể thích nghi với đất nước này, ngay cả việc là quá sớm để đánh giá đầy đủ sự thích nghi này có đóng góp như thế nào cho Phật giáo Hoa Kỳ ở thế kỷ XXI.

A. Buổi đầu du nhập và những Phật tử cải đạo đầu tiên

1. Phong trào Thuyết Siêu Việt

Việc nhiều người cải đạo từ tôn giáo khác sang Phật giáo (từ đây viết gọn là “Phật tử cải đạo”) tự xem mình là một phần của tôn giáo mới này trên đất nước Hoa Kỳ có thể bắt nguồn từ những thập niên trước cuộc Nội Chiến Mỹ (1861-1865). Tính chính xác lịch sử của tuyên bố này không quan trọng bằng sự thực rằng nó đã tạo cho những người Phật tử cải đạo một loạt các tiền lệ và ý thức có một dòng truyền bản địa. Nói chung, điều này cũng nối kết họ với văn hóa và lịch sử của đất nước, giúp những Phật tử cải đạo chắt lọc những yếu tố Mỹ để thiết lập những hình thái mới cho Phật giáo. Dưới khía cạnh lịch sử, dòng truyền này giúp chúng ta có cái nhìn về sự hiểu biết Phật pháp của người Hoa Kỳ vì nó phát triển từ đơn giản đến phức tạp, như trong cộng đồng xã hội ngày nay.

Nguồn gốc của dòng truyền này được bắt nguồn từ những người theo phong trào Thuyết Siêu Việt (Transcendentalits) và chủ nghĩa lãng mạn như Ralph Waldo Emerson, Walt Whitman, Henry David Thoreau. Cũng như các nhà lãng mạn Châu Âu, họ rất thích thú và bị cuốn hút bởi các tôn giáo châu Á. Sự nhiệt tâm của họ đã định hình cho việc chấp nhận rộng rãi những tôn giáo mới từ châu Á của những thế hệ người Mỹ sau này. Họ cũng chính là thế hệ đầu tiên của những người cầm bút và trí thức phương Tây có cơ hội tiếp xúc với kinh văn của Ấn giáo và Phật giáo mà các học giả nhiều thế hệ trước đó đã dịch thuật. Năm 1844, những trích đoạn tiếng Anh của Kinh Pháp Hoa (dịch bởi các thành viên của phong trào Thuyết Siêu Việt) được xuất bản đầu tiên tại Hoa Kỳ trên tạp chí The Dial của Phong trào Thuyết Siêu Việt.

Sự hiểu biết về Phật giáo của những nhà theo chủ nghĩa lãng mạn thường rất hạn chế, nhưng những gì thiếu hụt về kiến thức, họ đã bù đắp lại bằng lòng nhiệt thành và sự sáng tạo. Thật dễ dàng để đánh giá cao tầm quan trọng của các tôn giáo châu Á đối với Emerson, Thoreau, Whitman, và những người khác trong thế hệ của họ. Việc họ được xem như những người cầm bút sáng tạo và những nhà tư tưởng tôn giáo mới được truyền cảm hứng từ phương Đông đã đặt họ vào vị trí những người tiên phong cho dòng truyền này.

Tầm quan trọng của họ đối với Phật giáo Hoa Kỳ ở chỗ họ đã truyền cảm hứng cho các nhà văn, nhà thơ của phong trào văn học The Beat Generation ở thế kỷ sau, như Jack Kerouac (tác giả cuốn tiểu thuyết nổi tiếng The Dharma Bums (tạm dịch Những Gã Ăn Mày Giáo Pháp, 1957), Gray Synder, Allen Ginsberg, Anne Waldman, và nhiều người khác. Các nhà thơ, nhà văn của phong trào The Beat Generation đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút người Mỹ chú ý đến Phật giáo và ứng dụng Phật pháp sáng tạo bằng nhiều cách, đã truyền cảm hứng đến nhiều cộng đồng cải đạo. Phong trào Thuyết Siêu Việt, The Beat Generation, và một loạt các nhà cầm bút đã mang Phật giáo đến với công chúng qua sáng tác văn chương, viết lách. Ngày nay, tranh ảnh nghệ thuật và ý tưởng Phật giáo được phổ biến rộng rãi trong nghệ thuật và công chúng, nhưng Phật giáo, đặc biệt là Thiền, có tầm ảnh hưởng đến nền văn chương Mỹ, đặc biệt là thơ, trong nhiều thế hệ.

2. Hội Thông Thiên Học

Hội Thông Thiên Học được thành lập ở thành phố New York vào những năm 1870 là một sự phát triển quan trọng khác của dòng truyền này ở Hoa Kỳ. Những người sáng lập Hội, Đại tá Hải quân Hoa Kỳ Henry Steel Olcott (một người theo đạo Tin Lành) và Helena Petrovna Blavatsky (một phụ nữ nhập cư người Nga) là những người cải đạo và trở thành Phật tử phương Tây đầu tiên. Họ quy y Tam Bảo ở Sri Lanka (Tích Lan). Đại tá Olcott sau đó trở nên nổi tiếng khi giúp đỡ các lãnh đạo Phật giáo Sri Lanka đấu tranh tự vệ chống lại các phái đoàn truyền giáo Cơ Đốc ở Sri Lanka. Ông cũng làm việc để tạo ra một mặt trận thống nhất giữa các nhà lãnh đạo Phật giáo Nguyên thủy và Đại thừa ở Nam Á, Đông Nam Á và Bắc Á trong nỗ lực chống lại sự xâm lấn của Cơ đốc giáo trong thời đại của chủ nghĩa đế quốc châu Âu. Ngày nay, Olcott được xem như anh hùng dân tộc Sri Lanka. Henry Steel Olcott cũng chính là người tham gia, cố vấn và hỗ trợ thiết kế lá cờ Phật giáo vào năm 1885. Blavatsky và Annie Besant, người kế thừa Blavatsky lãnh đạo Hội Thông Thiên Học, được xem như là những nhà lãnh đạo tinh thần sáng tạo và là những người đồng cảm lớn với các truyền thống tôn giáo của châu Á.

Hội Thông Thiên Học là sự phát triển đặc trưng trong thế kỷ XIX của Phật giáo Hoa Kỳ. Trong chừng mực nào đó, nó là một sự kết hợp giữa Đông và Tây vào thời điểm mà cả hai bên thật sự ít có sự giao tiếp với nhau, nó trở thành điểm giao lưu quan trọng và tiếp tục chức năng này trong suốt mấy thập niên. Rất nhiều nhà Thông Thiên học tuyên bố Hội Thông Thiên Học là một hình thức của Phật giáo, nhưng trên thực tế, nó cũng thu hút cả thuyết huyền bí, tư tưởng khoa học, yếu tố Kitô giáo, Do Thái giáo và cả Ấn Giáo.

3. Đại Hội Tôn giáo Thế giới tại Chicago, Hoa Kỳ

Đại hội tôn giáo thế giới năm 1893 tại Chicago-Hoa Kỳ là bước ngoặt quan trọng của Phật giáo Hoa Kỳ (mặc dù tại đại hội này Phật giáo chỉ giữ vai trò thứ yếu) bởi bốn lý do sau. Thứ nhất, các đại biểu Phật giáo đến từ châu Á trình bày trước sự háo hức của đông đảo đại biểu đại hội về các truyền thống Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Thiền tông, Nhật Liên tông và các tông phái Phật giáo khác làm cho người Mỹ bắt đầu cảm nhận rằng Phật giáo rất đa dạng về tông phái và truyền thống tùy nền văn hóa của mỗi quốc gia mà Phật giáo hiện diện chứ không phải là một tôn giáo có giáo hội tập quyền như các tôn giáo phương Tây.

Thứ hai, Đại hội đánh dấu thời điểm Phật giáo bắt đầu được hiểu trong bối cảnh hiện đại. Các đại biểu Phật giáo như nhà văn, nhà chấn hưng Phật giáo người Sri Lanka Anagarika Dharmapala, Thiền sư đến từ Nhật Bản Shaku Soyen đã giới thiệu trình bày Phật pháp như là một truyền thống và lối sống sống động vào thời điểm mà đa số người phương Tây vẫn còn cho rằng Phật giáo là một hình thái huyền bí, kỳ lạ và xa xưa. Trong đại hội này, những nhà lãnh đạo tinh thần đến từ châu Á cũng khẳng định rằng Phật giáo có thể giải quyết sự xung đột giữa khoa học và tôn giáo tốt hơn Kitô giáo, một quan điểm vẫn được nhấn mạnh cho đến ngày nay bởi nhiều nhà Phật học.

Thứ ba, Đại hội cũng được xem như là sự bắt đầu cho phong trào đối thoại liên tôn giáo. Ngày nay, việc đối thoại này vẫn đóng vai trò quan trọng trong bối cảnh Phật giáo đương đại Hoa Kỳ, nơi mà Phật tử cải đạo và dân nhập cư từ mọi miền luôn chia sẻ và đối thoại về những khác biệt văn hóa. Đối thoại giữa Phật giáo với Thiên Chúa giáo và Do Thái giáo cũng giúp họ thấu hiểu nhau hơn và giúp những người nỗ lực đưa Phật giáo vào dòng chảy tôn giáo chính ở Hoa Kỳ.

Và quan trọng hơn cả, Đại hội là một cột mốc lịch sử đánh dấu sự truyền bá chính thức Phật pháp vào Hoa Kỳ. Sau Đại hội, Ngài Dharmapala đã tiếp tục nhiều chuyến đi đến Hoa Kỳ, gặp gỡ nhiều trí thức nhiệt tâm với Phật giáo. Thiền sư Shaku Soyen cũng có nhiều chuyến đến Hoa Kỳ, nhiều cộng sự và học trò của Ngài Shaku Soyen cũng theo bước chân thiền sư đến Hoa Kỳ, trong số đó phải kể đến Sokei-an, Nyogen Senzaki, và đặc biệt là D.T.Suzuki, tác giả bộ Essays in Zen Buddhism - Thiền Luận nổi tiếng. Thiền sư Shaku Soyen đã hóa độ Paul Carus, một nhà tự nhiên học, trở thành người hộ pháp chính thức đầu tiên ở Hoa Kỳ và là nhân vật quan trọng trong việc giới thiệu Phật giáo đến phương Tây. Paul Carus xuất bản nhiều kinh sách Phật giáo và các tác phẩm dịch thuật của Suzuki.

 


1. https://www.pbs.org/wnet/religionandethics/2001/07/06/july-6-2001-comments-on-tensions-in-american-buddhism/15941/

2. Robert Wuthnow and Wendy Cage, “Buddhists and Buddhism in the United States: The Scope of Influence,” Journal of the Scientific Study of Religion 43, no. 3 (September 2004): 371.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Những áng mây trắng - Thơ: Hoang Phong - Diễn ngâm: Hồng Vân
    • Mẹ ơi - Thơ: Thích Phước Hạnh - Nhạc: Hoàng Lan
    • Khúc ca Tịnh Độ - Lời: Thích Phước Hạnh - Nhạc: An Sơn
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 13
    • Số lượt truy cập : 6116349