PHÁT NGUYỆN THÀNH PHẬT ĐỘ TẤT CẢ CHÚNG SANH
HUỲNH VĂN ƯU
Chúng ta ngày nay học Phật, trước nhất là phát nguyện thành Phật, phát nguyện độ tất cả chúng sanh; học Phật là để mở rộng tâm lượng, không nên nghĩ đến lợi ích chính mình. Lợi ích của mình quá nhỏ bé, quá ngắn ngủi, chỉ cần một hơi thở không tiếp tục thì lợi ích còn đâu! Lợi ích của mình hưởng thụ được đến bao giờ!? Thật là mê muội đến cùng cực. Nếu có thể đem Phật pháp hoằng khắp thế giới, lưu truyền lâu dài, tự nhiên phước đức của mình đời đời, kiếp kiếp đều hưởng không hết. Tứ hoằng thệ nguyện là con đường thành Phật. Trước tiên chúng ta phải phát nguyện, mở rộng tâm lượng, không được khởi tâm động niệm nghĩ đến lợi ích của mình. Cái tâm lượng nầy quá nhỏ. Phật dạy chúng ta phát nguyện, phải vì lợi ích tất cả chúng sanh. Tất cả chúng sanh đương nhiên là bao gồm luôn cả gia tộc, gia đình chúng ta… Cho nên, nhất định phải phát đại tâm. Tâm lượng chúng ta lớn thì chư Phật hộ niệm, long thiên sẽ hộ trì, sớm về Tây phương Cực lạc thành Phật, biến hóa vô lượng, vô biên phân thân đi độ những thân bằng quyến thuộc, còn bản thân mình thì không rời khỏi bên cạnh A-di-đà phật, chúng ta có thể phân ra vô số thân, mỗi ngày lạy vô số phật, độ vô số chúng sanh, toàn là dùng phân thân mà đi. Về Tây phương Cực lạc thế giới thì mãi mãi không còn đọa tam ác đạo, vĩnh viễn không bị đọa xuống lục đạo luân hồi. Chúng ta sẽ trở lại thế gian nầy, là Bồ-tát thừa nguyện tái lai, không có thứ gì là không tự tại. Chúng ta đến để độ chúng sanh, chứ không phải đến để thọ báo. Chúng ta đến để thị hiện, lại diễn tuồng, nhưng là diễn cho người khác xem, đó là độ tất cả chúng sanh…
Có câu chuyện kể rằng: Thế Tôn dẫn các vị thánh chúng lên cõi Trời thứ sáu giảng kinh Đại tập (là cõi Trời của Ma vương). Phật dạy triệu tập các loại quỷ hung dữ ở trên trời hoặc ở nhân gian thuộc các cõi để nhận lời phó chúc của đức Phật là ủng hộ Chánh pháp. Khi ấy, tất cả loài quỷ đều nhận lời của đức Phật, mỗi quỷ đều phát nguyện rộng lớn ủng hộ Chánh pháp, nhưng chỉ có một Ma vương nói: Thưa Cù Đàm, tôi đợi tất cả chúng sanh thành Phật, hết cõi chúng sanh trống rỗng không còn một cái tên gọi chúng sanh nữa thì tôi mới phát tâm. Chúng ta mới nghe qua không khỏi nản lòng và cho Ma vương kia ngang ngược. Nhưng chính Ma vương nầy nói vậy là đã phát tâm Bồ-đề rồi. Hiểu được câu nói nầy thì mới thấy Ma vương hiểu đạo rất sâu, ngay cái niệm đó đã phát tâm Bồ đề rồi (nên mới nguyện độ tất cả chúng sanh, không bỏ sót một ai). Đó cũng là tâm nguyện trong câu đầu bài kệ “Từ hoằng thệ nguyện”:
“Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Phật pháp vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”
Xem qua, chúng ta thấy bốn câu kệ nầy cũng không nằm ngoài 48 lời nguyện của Đức Phật A-di-đà. Tất cả chư Phật Như Lai khi còn là nhân địa đã tổng hợp các nguyện nầy lại. Cho nên “Tứ hoằng thệ nguyện” là nguyện cơ bản của tất cả Bồ-tát tu hành thành Phật và trên bước đường tu phàm phu chúng ta cũng phải học tập theo gương các Ngài, phải làm cho được. Như vậy, hành của chúng ta cũng giống Phật, tâm đồng với Phật, nguyện đồng với Phật, giải đồng với Phật để độ tất cả chúng sanh...
Chúng ta biết, chúng sanh vô biên là nói hết trong hư không pháp giới chứ không phải chỉ ở cõi Ta-bà nầy. Như vậy, với thân phận chúng ta đầy nghiệp chướng, phiền não đầy dẫy, độ mình còn chưa được làm sao độ được người khác: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Với lời nguyện câu 1 là tiêu đề là động lực, mục đích chúng ta đạt đến, ba nguyện sau là để hoàn thành việc nầy, nhưng để đạt được nguyện vô biên độ chúng sanh, chúng ta phải tự hoàn thiện bản thân phải đoạn hết phiền não thời mới thành tựu được bốn đại nguyện. Bởi hết phiền não mới sinh trí tuệ, có trí tuệ mới học được hết pháp môn, mới ngộ đạo mới thành Phật. Để hết phiền não, các kinh điển, các bậc tôn túc đều xoáy quanh tìm đủ mọi phương pháp để diệt phiền não, nhưng rồi trên bước đường tu hành cả đời trong thiền định, niệm Phật… đủ pháp môn mà có mấy người dứt trừ được phiền não. Đại sư Đàm Hư từng than thở, suốt một đời những điều Đại sư đã thấy đã nghe, người tham thiền có khả năng chứng đắc thiền định rất ít, nhưng tham thiền được khai ngộ thì chẳng những suốt đời Đại sư chưa thấy mà cũng chưa hề nghe.
Đức Phật Thích Ca đến thế gian nầy giảng nói tám vạn bốn ngàn pháp môn, trừ pháp môn Tịnh độ ra, các pháp môn khác đều là tự cứu, đều được Ngài cấp cho vũ khí Giới Định Huệ, vũ khí nầy giống như đao Thanh Long nặng hơn tám mươi cân của Quan Công nhưng chúng ta cầm không nổi cũng không sử dụng được, dù có cầm chỉ thêm phiền phức không thể đột phá vòng vây. Vòng vây đại biểu cho các nghiệp chướng do chúng ta gây tạo từ đời quá khứ và hiện tại. Phật Thích Ca cấp phát cho chúng ta tám vạn bốn nghìn vũ khí Giới Định Tuệ, mỗi người một môn. Chúng ta được cấp ngũ giới, thập thiện, Bồ-tát-giới, các môn thiền định, các pháp khai ngộ… nhưng chúng ta cầm nổi thanh đao Thanh Long không? Đa số người đời không ăn chay nổi, trì một giới còn không xong có đâu trì ngũ giới. Đồng thời mục đích tu trì Giới Định Tuệ phải đạt được tham, sân, si, điều nầy khó càng thêm khó. Nếu có thể dùng sức mạnh như các Đại đức Tổ sư thì có thể dùng vũ khí Giới Định Huệ chặt đứt phiền não tham sân si thì có thể dựa vào tự lực, tự mình cứu mình. Tám vạn bốn nghìn pháp môn nầy đều là tham, sân, si phiền não, muốn đoạn một pháp cũng không nổi. Như vậy, lúc nầy phải cần người vác chúng ta lên vai mới xông ra khỏi vòng vây. Chúng ta Niệm Nam mô A-di-đà Phật thì Ngài vác chúng ta lên vai, dùng thanh kiếm bén sáu chữ danh hiệu của Ngài, Đại sư Thiện Đạo nói: “Kiếm bén tức là danh hiệu Phật A-di-đà, một tiếng xưng niệm, tội đều tiêu trừ”, chẳng cần đoạn phiền não, Đức Phật A-di-đà lập tức dùng kiếm bén dẹp sạch, trực tiếp cứu chúng ta khỏi sự bao vây ba cõi. Chỉ có sự cứu độ của bản nguyện Di-đà, sự cứu độ hoàn toàn tha lực mới có thể biểu hiện cái ý cứu độ một cách hoàn chỉnh. Chúng ta không thể dựa vào sức mình để tự cứu. Trong tám vạn bốn nghìn pháp môn, các pháp khác đều là tự lực (tự mình cứu mình). Pháp môn Tịnh độ nầy là Phật Di-đà cứu chúng ta, vì thế gọi là “Tin nhận Di-đà cứu độ”.
Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Nếu người cúng dường cho Thánh nhân nhiều như cát sông hằng, nhưng đức Phật bảo không bằng niệm Phật cầu về thế giới Tây phương. Vì sao? Vì niệm Phật cầu sanh về thế giới Cực lạc là chân thật, lợi ích mãi mãi. Khi sanh về thế giới Cực lạc chứng được tam bất thoái (vị bất thoái, Hạnh bất thoái, Niệm bất thoái), viên mãn thì trong một đời sẽ thành Phật. Cho dù bạn chưa thành Phật, nhưng sinh về Tây phương Cực lạc làm Bồ-tát thì bạn là Bồ-tát A-duy-việt-trí (Bất thoái chuyển) bạn có trí huệ, có thần thông, có năng lực độ chúng sinh, có duyên với bạn ở khắp hư không pháp giới, bạn có khả năng giúp đỡ họ.
Trên bước đường tu của chúng ta muốn về Tây phương Cực lạc phải đoạn phiền não, đoạn không chỉ vì chính mình mà còn giúp độ chúng sanh, sức mạnh ấy rất lớn, ta đoạn phiền não sớm một ngày sẽ giúp hết thảy chúng sinh một ngày, chúng ta chậm trễ một ngày chẳng sao, nhưng mà tội nghiệp chúng sanh nên không nỡ lòng nào! Đây là động lực đại từ đại bi. Đoạn phiền não đây là thành tựu đức hạnh. Nếu chưa đoạn phiền não, chưa vào vô sanh nhẫn của Bồ-tát vị, chưa được thọ ký, chưa đến ngôi bất thối chuyển mà xa lìa chư Phật tất sẽ chìm trong phiền não mất hết căn lành. Pháp môn niệm Phật trừ được các thứ phiền não, các thứ tội chướng, niệm Phật Tam muội có phước đức lớn để độ chúng sanh, chư Bồ-tát muốn mau diệt tội chướng, được nhiều phước đức sớm độ chúng sanh không pháp nào thù thắng hơn pháp môn niệm Phật Tam muội. Vậy trước nhất chúng ta phải gần gũi chư Phật, chư Bồ-tát để diệt trừ phiền não, nếu phiền não chưa dứt chẳng khác gì người dùng chiếc thuyền không bền chắc đưa người khi gặp gió to, sóng lớn, thuyền sẽ bị lật chìm, mình và người đều đắm. Lại như người đem ấm nước sôi đổ vào băng tuyết, muốn cho băng tuyết tan, thì chỉ tan được chút ít, rồi chính nước sôi ấy sẽ trở thành băng tuyết. Bồ-tát chưa vào Vô sanh pháp nhẫn mà xa lìa chư Phật cũng là như thế. Nếu bồ-tát chưa đủ nhãn lực, chưa đủ phương tiện, muốn dùng chút ít công đức để hóa độ chúng sanh, sự lợi ích đó có đôi phần, nhưng trái lại chính mình sẽ bị đọa lạc.
Lại nữa, pháp môn niệm Phật là pháp môn cứu độ, bình đẳng, vô điều kiện của đức Phật A-di-đà, chỉ cần tin sâu, nguyện thiết, hành thâm, đi, đứng, nằm ngồi lúc nào cũng nhớ Phật và niệm Phật, Niệm Phật là Bản nguyện, là 48 nguyện cứu độ hết thảy chúng sanh niệm Phật cầu vãng sanh sanh về Thế giới Tây phương Cực lạc. Trong đó nguyện thứ 18 nói: Khi ta đặng thành Phật, chúng sanh ở mười phương chí tâm tín nhạo, muốn sanh về nước của ta, nhẫn đến trong mười niệm, nếu chẳng được vãng sanh, ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác. Đã thành Phật, Bồ-tát rồi còn lo gì không cứu độ được chúng sanh, không học được hết thảy pháp môn. Việc về Tây phương Cực lạc là việc lớn còn các việc khác thì tự nhiên sẽ thành tựu.
Thân người thì yếu đuối, cuộc đời thì ngắn ngủi, thế giới thì đa đoan vật chất và tư tưởng, sanh diệt biến đổi vô thường làm cho đời vất vả gian truân, tâm dính cảnh phiền não nhiễm ô thì dù cho cả đời siêng năng tinh tấn tu hành cũng chắc gì đạt đến cảnh giới Niết-bàn. May ra ai đó là Lục Tổ Huệ Năng kiến tánh: “Bổn lai vô nhứt vật, Hà xử nhá trần ai” thì mới khai ngộ. Như kinh đã nói: Tám mươi bốn ngàn pháp môn vẫn là còn số lượng, ở đây nói pháp môn vô lượng, nhưng chúng ta vẫn thệ nguyện học hết, tức là tâm tinh tấn không có giới hạn, nếu còn một pháp môn là còn phải học (đời người ngắn ngủi sao học hết) với tâm phàm phu, phiền não tràn đầy dù có học thuộc một bộ kinh, chưa chắc hiểu thâm nghĩa lý trọn vẹn, nói chi đến thực hành lời Phật dạy, còn nói đến đọc tụng, niệm kinh chỉ trong hai giờ thôi mà không khởi vọng niệm là rất khó. Cho nên, phải xem lại mình thích hợp với phương pháp nào dễ dàng và thích hợp nhất. Trong thời mạt pháp, căn cơ chúng sinh vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, phiền não tràn đầy, bản thân khó thoát khỏi sinh tử luân hồi nói chi cứu độ hết thảy chúng sanh. Chúng ta ngày nay học Phật, trước nhất là phát nguyện thành Phật, phát nguyện giúp đỡ tất cả chúng sanh, nguyện nầy là Bồ-đề tâm. Trước tiên là đoạn phiền não, rồi mới học pháp môn. Đoạn phiền não đây là phương hướng, mục tiêu một đời của chúng ta phải cố gắng làm, đợi khi đến được Tây phương Cực lạc thế giới rồi mới bắt đầu học pháp môn. Một đời nầy của chúng ta không học pháp môn vì pháp môn quá nhiều, thọ mạng lại quá ngắn, học không hết. Cho nên đời này, kiếp này có gắng hoàn thành mục tiêu thứ nhất là đoạn phiền não, tín nguyện trì danh, cầu sanh Tịnh độ.
Xét thấy chỉ có pháp môn tin nhận Di-đà cứu độ, nương theo nguyện lực cứu độ bình đẳng, vô điều kiện của Ngài mà thật niệm Phật, phát tâm cầu thế giới Cực lạc, phát tâm chuyên niệm A-di-đà Phật, vì Phật A-di-đà chỉ nhiếp thủ duyên người niệm Phật. Sáu chữ “Nam-mô A-di-đà Phật” chính là vạn đức hồng danh, tất cả những công năng, công đức đều ở trong câu danh hiệu nầy. Cho nên ở tại cuộc đời nầy, chúng ta muốn cầu bất cứ điều gì, thì chỉ cần xưng niệm câu Phật hiệu nầy là đủ. Sau khi được Phật A-di-đà tiếp dẫn về Cực lạc. Khi đến thế giới Cực lạc thì vĩnh viễn xa lìa tam giới lục đạo luân hồi và cứu cánh thành Phật. Khi thành Phật thì có thể phân thân ra trăm vạn ức, rộng độ chúng sanh, thành tựu được (Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ) là viên mãn thích hợp nhất. Lo gì không thực hiện được bốn đại nguyện cứu độ tất cả chúng sanh…
Tin nhận Di-đà cứu độ
Chuyên xưng Di-đà Phật danh
Nguyện sinh Di-đà Tịnh độ
Độ khắp mười phương chúng sanh
Nam-mô A-di-Đà Phật.
Bình luận bài viết