PHÁT TRIỂN THIỀN NGUYÊN THỦY
TẠI CÁC NƯỚC HẠ LƯU SÔNG MÊ-KÔNG
HT. VIÊN MINH(*)
1. THIỀN TỪ NGUYÊN THỦY ĐẾN HIỆN ĐẠI
Phật giáo trong vùng Đông Nam Á ven hạ lưu sông Mê-kông nói chung phần lớn theo hệ phái Nam tông nên thiền được truyền thừa từ gốc đạo Phật Nguyên thủy được ứng dụng trong các chùa chiền, tu viện, già lam như là nếp sống an tịnh trầm lặng truyền thống của hàng Tăng Ni hơn là hàng Phật tử tại gia. Nhưng từ thế kỷ XX trở lại đây nổi lên hiện tượng tín đồ Phật tử ưa chuộng học thiền, hành thiền, đặc biệt là thiền Vipassanā, tức thiền Tuệ (thiền Quán, thiền Minh sát, thiền Tứ Niệm xứ). Sự kiện này cho thấy một chuyển hướng mang tính “mở rộng” có tầm ảnh hưởng khu vực (và cả quốc tế) trong việc nghiên cứu, học hỏi và ứng dụng Thiền học nguyên thủy trong cộng đồng Tăng Ni Phật tử các nước trong vùng. Nhiều thiền viện, rừng thiền, rừng đầu-đà, trung tâm thiền nguyên thủy lớn nhỏ được hình thành, xây dựng ở nhiều nơi; nhiều khóa thiền ngắn hạn (1-3-7 ngày), dài hạn (2 tuần, 1-3-7 tháng) được tổ chức tại những địa điểm thuận lợi, phù hợp. Tại Việt Nam, từ những năm 90 của thế kỷ XX đến nay, không ngừng xuất hiện các trước tác về thiền của các vị thiền sư, nhà nghiên cứu hoặc các dịch phẩm liên quan đến thiền; một số thiền viện, chùa, tịnh xá có mở các khóa thiền theo định kỳ hằng năm, hằng tháng, hằng tuần cũng được nhiều Tăng Ni Phật tử biết đến, tham gia tu tập.
2. THIỀN VIPASSANĀ VÀ THIỀN SAMATHA THỜI ĐỨC PHẬT QUA KINH TẠNG PĀLĪ
Thiền Vipassanā khi được chuyển ngữ sang Hán-Việt có nhiều tên gọi khác nhau như: thiền quán, thiền tuệ, thiền minh sát… phân biệt với thiền chỉ, thiền định (Samatha) – vốn có mặt trước; và cả hai tồn tại song song với nhau trong lịch sử truyền bá và phát triển của Phật giáo Nguyên thủy tại các nước Phật giáo Nam Á và Đông Nam Á. Sự khác nhau cực kỳ quan trọng của hai loại thiền này nằm ở hai vấn đề: công năng và sự ngộ nhận giữa nhận thức (tri kiến & tư duy) với phương pháp (kỹ thuật, biện pháp):
2.1. Khác nhau về công năng
- Thiền Vipassanā sẽ giúp hành giả thấy rõ được bản chất thật của hiện tượng vật lý lẫn tâm lý (Giác ngộ), qua đó cởi bỏ được các trói buộc, khổ đau do ảo kiến, vọng niệm hình thành (Giải thoát): “Này các tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến sự thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu bi, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Ðó là Bốn Niệm xứ”(1).
- Thiền Samatha sẽ làm cho tâm hành giả đạt được trạng thái định tĩnh, chuyên nhất trên một đối tượng từ cạn đến sâu theo 4 cấp độ được quy ước (Đệ nhất đến đệ tứ thiền):
“Lại nữa, này các tỷ-kheo, tỷ-kheo ly dục, ly ác pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm với tứ. Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần…
Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh…
…, Tỷ-kheo ấy diệt tầm và tứ, chứng và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Tỷ-kheo ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần…
Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh…
…, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là “Xả niệm lạc trú”, chứng và an trú Thiền thứ ba. Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân mình với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần…
Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh…
…, Tỷ-kheo, xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và an trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Tỷ-kheo ấy ngồi, thấm nhuần toàn thân mình với tâm thuần tịnh trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần…
Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh…”.
Dựa trên các ý nghĩa này về Vipassanā (hay thiền Minh sát, thiền Tứ Niệm xứ) cũng như bốn cấp độ thiền chứng của Samatha như được trích dẫn ở trên thì chúng ta dễ nhận thấy các phương pháp thiền được một số vị thiền sư đương đại ở Myanmar, Thái Lan, Lào v.v... sáng lập ra đều ít nhiều có gốc gác từ hai loại thiền thời đức Phật như sử dụng các đề mục ánh sáng nội tâm, quán tưởng, âm thanh, cảm giác, tứ đại, tứ vô lượng tâm, kasiṇa hay biến xứ, các khái niệm (tứ thiền vô sắc), niệm ân đức Phật Pháp Tăng…(thiền tùy niệm), v.v… [3, Ch. XVII]
2.2. Ngộ nhận giữa nhận thức (tri kiến & tư duy) và phương pháp
Trước khi làm rõ vấn đề trên, thiết tưởng cũng nên bàn qua một tồn tại sau đây:
2.2.1. Mối liên hệ giữa nhóm thính chúng đầu tiên và thời giác ngộ
Bài kinh đề cập đến thiền Vipassanā đầy đủ nhất trong kinh văn Pāli là kinh Đại Niệm Xứ thuộc Trường bộ kinh - kinh Niệm Xứ thuộc Trung bộ kinh và một vài trích đoạn về Tứ Niệm Xứ nằm rải rác ở nơi này nơi kia trong Kinh tạng là những phiên bản không đầy đủ. Đây cũng chính là sở cứ quan trọng nhất mà các vị thiền sư và hành giả của các Thiền Viện và Trung Tâm Thiền Tứ Niệm Xứ dựa vào đó hành trì. Theo chú giải [4] thì bài kinh này được đức Phật thuyết giảng lần đầu tiên ở Kuru, mà Kammassadhamma là đô thị của Kuru; và một chi tiết rất đáng lưu ý ở đây là, đối tượng nghe giảng dạy là các cư dân ở Kuru (với rất nhiều thành phần trong cộng đồng, đủ loại tuổi tác, giới tính…) chứ không phải là chư tỳ-khưu. Về sau, đức Phật lại giảng dạy nội dung này cho các vị xuất gia nghe không chỉ một lần. Thế nhưng trên mặt văn bản chính thức thì dù ở Trường bộ kinh hay Trung bộ kinh hoặc các trích đoạn ngắn ở trong kinh này, kinh kia thuộc 5 Nikāya thì chúng ta chỉ đọc được một thông tin:
Một thời Thế Tôn ở xứ Kuru (Câu-lâu), Kammassadham-ma là đô thị của xứ Kuru. Rồi Thế Tôn gọi các tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo.
Các tỷ-kheo vâng đáp Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn.
Thế Tôn thuyết như sau:
- Này các tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Ðó là Bốn Niệm xứ.
Thế nào là bốn? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời(2).
Nếu thông tin của chú giải đúng thì rất có thể trong các kỳ Kết tập Tam Tạng sau này, việc hệ thống hóa theo mẫu văn bản/bài kinh nói chung như đã xuất hiện trong phần mở đầu mỗi bài (kinh), vì một lý do nào đó, đã góp phần gây nên sự ngộ nhận này. Và vô hình trung, khi nhấn mạnh đến các tỳ kheo xuất gia đã khiến bỏ quên ý nghĩa pháp hành thiết thực trong đời sống hàng ngày của người tại gia cư sĩ đối với thiền Tứ Niệm xứ bởi luận cứ: Tiến trình Giác ngộ (chứng đạt Chánh trí, thấu hiểu bản chất đời sống), Giải thoát (cởi bỏ các ảo kiến, vọng tưởng về bản ngã; chấm dứt sầu bi khổ ưu não) chỉ có thể thành tựu sau nhiều kiếp sống tu tập; trong khi đó, ở cuối bài kinh, đức Phật khẳng định rất rõ:
Này các Tỷ kheo, vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này như vậy trong bảy năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại; hai là nếu còn hữu dư y, chứng quả Bất hoàn. Này các Tỷ kheo, không cần gì đến bảy năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này như vậy trong sáu năm... trong năm năm... trong bốn năm... trong ba năm... trong hai năm... trong một năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại; hai là nếu còn hữu dư y, chứng quả Bất hoàn. Này các Tỷ kheo, không cần gì đến một năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này trong bảy tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn. Này các Tỷ-kheo, không cần gì bảy tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này trong sáu tháng... trong năm tháng... trong bốn tháng... trong ba tháng... trong hai tháng... trong một tháng... trong nửa tháng... vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hai là nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn. Này các Tỷ-kheo, không cần gì nửa tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này trong bảy ngày, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hai là nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn(3).
2.2.2. Quán: nhiệt tâm + tỉnh giác + chánh niệm = Nhận thức thực tại tánh toàn diện và khách quan:
Đối với thiền Vipassanā, có ba yếu tố luôn được đức Phật nhấn mạnh trong quán (ānupassī), đó là: nhiệt tâm (ātāpī), chánh niệm (satimā) và tỉnh giác (sampajāna)(4). Ba yếu tố này phải cùng tiến hành, cùng tồn tại và cân bằng về sức mạnh trong quá trình hành giả thể nghiệm:
Thế nào là bốn? Này các Tỷ kheo, ở đây vị Tỷ kheo sống quán thân trên thân: nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ trên các thọ: nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm trên tâm: nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp trên các pháp: nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời(5).
Quán ở đây là nhìn ngắm, quan sát thực tại một cách trực tiếp, trung thực và minh bạch như phản ánh mọi sự vật khi chúng xuất hiện trước mặt gương. Vì vậy trong đó cần có nhiệt tâm hay tinh cần là trở về với bản chất thật của thực tại, chánh niệm là trọn vẹn nhất như với thực tại. Tỉnh giác là tâm tỉnh táo, sáng suốt, tỏ tường. Thông qua ba yếu tố này, hành giả sẽ nhận thức thực tại một cách toàn diện và khách quan. Nói cách khác, hành giả tiếp xúc thực tại không qua lăng kính khái niệm, quan niệm chủ quan của bản ngã tham sân si như trước kia.
2.2.3. Thiền Vipassanā không phải là phương pháp rèn luyện thân tâm
Như đã đề cập ở trên, thuở đức Phật còn tại thế và cả trong các thiền viện, trung tâm thiền Phật giáo Nguyên thủy hiện nay đang song hành hai loại thiền: Thiền chỉ Samatha và Thiền quán Vipassanā.
* Thiền chỉ Samatha: Bất kỳ ai đã từng hành trì, tu tập hẳn đều biết thiền này có các đặc tính sau:
- Chỉ chọn một đối tượng làm đề mục để tập trung mọi chú ý vào nó;
- Trong một thời khóa thiền tập thường chỉ có một đối tượng để tâm quy hướng, nắm bắt; và chỉ thay đổi đối tượng khi thấy không thích hợp với căn tánh của hành giả hay muốn phát triển cao hơn;
- Giờ giấc hành trì hằng ngày được lập trình chặt chẽ và khá chính xác mới giúp hành giả tiến bộ;
- Mỗi loại đề mục (tùy niệm: niệm Phật, niệm Pháp…; tứ vô lượng tâm: từ, bi, hỷ, xả; biến xứ: màu sắc, đất, nước, lửa, gió v.v…) đều có bài bản về kỹ thuật, biện pháp xử lý khác nhau;
- Mỗi vị thiền sư hoặc ngay trong một dòng thiền của loại thiền này thường sáng tạo hoặc vận dụng hay thêm bớt một số kỹ thuật, kỹ năng để đạt hiệu quả nhanh và cao hơn;
- Phù hợp bốn yêu cầu theo truyền thống của thiền gia: pháp, thực, lữ, địa.
Đây chính là các nội hàm để chúng ta xác định Samatha là một loại phương pháp rèn luyện thân tâm nhằm đạt được cảnh giới định tĩnh, chuyên nhất; và từ đó hướng đến phát triển các công năng đặc dị của tâm linh như ngũ thông, tứ thần túc…
* Thiền quán Vipassanā: Trái lại với những điều kiện của thiền chỉ, thiền quán hoàn toàn không có cách thức nhất định hay sử dụng bất kỳ một kỹ thuật, phương pháp nào trong quá trình “thể nghiệm”. Trong kinh Đại Niệm xứ, từ đầu cho đến gần cuối, đức Phật chỉ trình bày từ tổng thể đến chi tiết tiến trình “minh sát”/ “tuệ quán” thân thọ tâm pháp để hành giả thấy rõ bản chất vô thường, khổ não, vô ngã, bất tịnh, đang diễn tiến từng giây từng phút ngay trên thực tại thân tâm này với mục đích không tham ưu, không nương tựa, không bám víu bất kỳ pháp nào.
Chúng ta có thể đối chiếu từng điểm giữa thiền Samatha và thiền Vipassanā dựa theo các đặc tính trên (của Samatha) để sáng tỏ vấn đề:
- Vipassanā lấy toàn bộ thân tâm và sự tương giao với thế giới làm đối tượng “minh sát”;
- Trong lúc “minh sát” không bao giờ dừng lại trên một đối tượng nhất định nào mà uyển chuyển thích ứng với sự biến đổi không ngừng của thực tại thân thọ tâm pháp (từ tư thế này qua tư thế khác của thân, từ trạng thái này qua trạng thái khác của thọ, từ thái độ này qua thái độ khác của tâm v.v...);
- Không có lập trình cứng nhắc theo một thời khóa biểu nhất định nào. “Không gián đoạn”(6) về không gian và thời gian nghĩa là thiền phải được “thể nghiệm” bất cứ ở đâu, lúc nào và trong hoàn cảnh địa lý, lịch sử nào. Đó là “yếu quyết” của một hành giả thiền Tứ Niệm xứ;
- Không có bất kỳ một kỹ thuật hay phương thức nào được sử dụng khi chúng ta sống và thở (vì đó là thuận theo tự nhiên) – mặc dù mỗi người có nghề nghiệp mưu sinh khác nhau, dân tộc khác nhau, trình độ học vấn, kiến thức, chuyên môn khác nhau,… Cũng vậy, hành giả Vipassanā chỉ mặc nhiên, lặng lẽ “minh sát” thân tâm trong khi sinh hoạt bình thường, đi đứng ngồi nằm, ăn cơm, uống nước…
Nếu mở rộng phạm vi so sánh, ắt hẳn sẽ còn không ít điểm tương phản giữa hai loại thiền này.
3. PHÁT TRIỂN CÁC TRUNG TÂM THIỀN NGUYÊN THỦY TẠI CÁC NƯỚC HẠ LƯU SÔNG MÊ-KÔNG
3.1. Khái quát tình hình
Mặc dù cùng có truyền thống Phật giáo Nguyên thủy là quốc giáo nhưng ở Lào và Campuchia thiền học trong giai đoạn hiện nay không phát triển mạnh như tại Thái và Myanmar; tuy rằng vẫn có một số trung tâm thiền và thiền viện đã và đang tồn tại - Sự kiện này có thể do bị ảnh hưởng nặng và trực tiếp bởi cuộc chiến Đông Dương từ sau Thế chiến thứ II cho đến gần cuối thế kỷ XX và một xã hội tương đối khép kín quá nhiều năm. Nhìn chung, Myanmar và Thái Lan là hai quốc gia hiện nay có số lượng thiền viện và trung tâm thiền vừa nhiều về số lượng vừa uy tín về chất lượng nhất và đang ngày càng hấp dẫn Tăng Ni Phật tử ở nhiều châu lục tìm về tham học. Những vị thiền sư hướng dẫn các thiền viện và trung tâm thiền ở hai xứ sở này gần đây được giới thức giả Phật giáo trong cộng đồng quốc tế biết đến nhiều có thể kể ra là:
Tại Thái Lan: Thiền sư Ajahn Chah, thiền sư Ajahn Buddhadasa, thiền sư Ajahn Neab, thiền sư Ajahn Dhammadaro, thiền sư Ajahn Jumnien…
Tại Myanmar: Thiền sư Mahāsi Sayādaw, thiền sư Sunlun Sayādaw, thiền sư Taungpulu Sayādaw, thiền sư Mohnyin Sayādaw, thiền sư U Ba Khin, thiền sư Pandita Sayādaw, thiền sư Shwe Oo Min Sayādaw, thiền sư Pa-Auk Sayādaw, thiền sư N.S. Goenka…(7)
Tại Việt Nam, từ năm 1940 Phật giáo Nguyên thủy có những thiền sư nổi tiếng như ngài Hộ Tông, ngài Bửu Chơn, ngài Giới Nghiêm, ngài Huệ Giác, ngài Giác Quang, ngài Hộ Nhẫn, Thiền sư Pháp Minh, Thiền sư Hộ Pháp (Đốc Huấn) v.v... đã mở nhiều khóa Thiền Định và Thiền Vipassanā tại các chùa Phật giáo Nguyên thủy để hướng dẫn Tăng Ni và Phật tử được rất đông hành giả tham dự và đạt được hiệu quả rất cao. Sau 1975, do tình hình đặc biệt của đất nước, việc nghiên cứu thiền học và hành thiền trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy tạm lắng xuống khoảng vài thập niên, cho tới những năm cuối thế kỷ XX cùng với đà phát triển của xã hội, đất nước, hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa thì nhu cầu tâm linh nói chung, tìm hiểu về thiền, học thiền nói riêng đang trở thành một hiện tượng khá sôi động không riêng cho giới Tăng Ni Phật tử mà còn cho nhiều thành phần khác nhau trong xã hội. Nhiều vị Tăng Ni và Phật tử đã tìm đến một số trung tâm và thiền viện ở trong nước tham học; và nhờ chính sách cấp hộ chiếu xuất ngoại của chính phủ ngày càng thông thoáng, dễ dàng nên nhiều người đã qua các trung tâm thiền hoặc thiền viện ở Thái và Myanmar học thiền. Một số vị sau một thời gian tham học, trở về nước nhiệt tình hướng dẫn cho đồng đạo; hoặc tổ chức các khóa thiền cho nhiều người đến tu tập theo hướng dẫn của họ. Về địa điểm và quy mô tổ chức thì dựa trên quy luật cung cầu của xã hội, hiện nay đã hình thành khá nhiều trung tâm thiền so với thập niên cuối của thế kỷ trước. Hầu hết tập trung ở một số tỉnh, thành ở miền Nam như thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh: Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Lâm Đồng, Cần Thơ, Trà Vinh, Rạch Giá, Hà Tiên; một vài nơi ở miền Trung như Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng và chỉ một ít điểm nhỏ ở Hà Nội và một số vùng phụ cận. Tuy nhiên, để đạt được mức độ về hình thức và nội dung một trung tâm thiền như ở Thái Lan và Myanmar để không chỉ Tăng Ni Phật tử trong nước đến tu học mà còn thu hút được cả Phật tử và khách du lịch “tâm linh” ngoại quốc, nhất là các nước Tây phương thì có lẽ các nhà tổ chức và xây dựng các cơ sở thiền tập của chúng ta còn phải học hỏi nhiều từ các nước bạn trong khu vực.
3.2. Các loại hình cơ sở thiền trong vùng
Trong vùng hạ lưu sông Mê-kông có nhiểu loại hình cơ sở hành thiền khác nhau như Thiền Viện, Trung Tâm Thiền, Rừng Thiền, Đạo Tràng và các Thiền Thất tự phát. Thiền Viện phần lớn dành cho Tăng Ni nội trú, có thanh quy, có thời khóa hàng ngày nhất định, có pháp môn riêng dưới sự hướng dẫn của một vị thiền sư. Trung Tâm Thiền lập ra để đáp ứng nhu cầu hành thiền của hàng xuất gia và tại gia, đôi lúc cho cả những người khác tôn giáo hay không tôn giáo tham dự. Tổ chức dưới dạng những khóa thiền do nhiều thiền sư khác nhau hướng dẫn cho mỗi khóa, và nội quy của mỗi khóa tùy thuộc vào pháp môn của mỗi vị thiền sư. Rừng Thiền hoặc còn gọi là Rừng Đầu-đà phổ thông với các nước Phật giáo Nam tông vùng Nam Á, ở đó có những khu rừng thiên nhiên yên tĩnh dành cho những ai muốn hành thiền có thể vào đó tu tập. Nhiều rừng thiền đã có những thiền thất do thí chủ phát tâm tạo dựng sẵn cho hành giả đến tùy nghi sử dụng. Đạo Tràng do một nhóm hành giả cùng địa phương hợp tác với nhau thành lập một cơ sở để tụ hội theo thời khóa đã định hầu sách tấn nhau hành thiền và thỉnh thoảng mời một vị thiền sư thích hợp với pháp thiền của họ đến hướng dẫn. Thiền Thất được xây dựng ở một địa điểm thuận lợi cho hành giả do nhu cầu hành thiền của cá nhân muốn sống biệt trú với gia đình hay tập thể để dễ thực hiện hạnh tu của mình - như nhập thất chẳng hạn - một cách độc lập và tự túc.
Trích dẫn dưới đây minh họa thêm cho sự khác biệt giữa hai loại hình tu viện trên; mặt khác, cung cấp cho chúng ta hiểu biết thêm một số nội dung sinh hoạt cơ bản của các thiền giả, thiền sinh như thế nào:
“Những trung tâm thiền dành cho kỳ tu tập tích cực ngắn hạn, và thiền viện thì dành cho việc sống theo thiền tất cả đều cung cấp một môi trường có lợi cho sự phát triển tâm linh. Trung tâm và thiền viện đều có thầy chỉ dạy, đối với việc giải trí thì rất giới hạn, tất cả thời gian chỉ để theo dõi tâm của mình. Tất cả đều hướng đến sự tu tập.
Trong trung tâm thiền, các sinh hoạt hàng ngày hầu hết bao gồm toàn bộ thời gian của mình dành cho việc thực tập thiền quán (ngồi một mình hay ngồi với một nhóm thanh tịnh), có lẽ mười hai giờ đến hai mươi giờ mỗi ngày. Nói chung, thiền hành và thiền tọa xen kẻ, người ta không ngồi liên tục hai mươi giờ trong trong tư thế thiền tọa. Thường mỗi ngày có một lần trình pháp với thiền sư hoặc cách một ngày một lần, và chỉ dành một ít thời gian lo nhu cầu đời sống thôi. Những sinh hoạt khác nếu là bậc xuất gia phải đi khất thực, ăn một hoặc hai buổi vào buổi sáng, tắm rửa, và cuối cùng đi ngủ, được phép ngủ bốn giờ mỗi đêm. Tu tập ở trung tâm, tất cả mọi người đều hướng đến sự phát huy định tâm và chánh niệm.
Trái lại đời sống trong thiền viện thì đa đoan hơn. Buổi sáng chư sư thức dậy rất sớm, ngồi thiền, và sau đó tụng kinh công phu sáng. Sau nữa chư sư đi khất thực, thức ăn người cư sĩ đã chuẩn bị sẵn sàng để cúng dường cho chư vị. Khi đi khất thực về, cả thiền viện đều thọ thực, chư vị được phép dùng hai bữa một ngày. Tất cả thực phẩm được ăn trước giờ ngọ. Sau buổi ăn, thiền sư có thể giảng đạo khuyến khích chư vị tu tập. Nghỉ trưa xong, chư vị hành thiền, học tập hay thực hiện các công việc của tăng đoàn như quay nước giếng, xây dựng sửa chữa những chỗ cần thiết, sửa hàng rào, quét dọn, lau chùi. Những công việc này chia đều cho chư sư để trong suốt một ngày chư vị có thể hành thiền, học tập, và làm công việc cho tăng đoàn. Thêm nữa, chư tỳ khưu có thể giúp đỡ dạy học và dạy thiền cho người tại gia cư sĩ. Thiền viện trong rừng chư vị cũng có thể may vá và nhuộm y của mình. Chư tỳ khưu chấp nhận những nhu cầu sống trong lối sống tri túc của mình. Cuối cùng vào buổi tối chư vị trở lại công việc với thiện nam tín nữ như tụng kinh, hành thiền một giờ hoặc lâu hơn nữa, và thiền sư giải đáp các câu hỏi và các vấn đề của tăng đoàn đặt ra trong một ngày qua. Sau đó tất cả đều trở về cốc liêu của mình hay sinh hoạt cá nhân rồi hành thiền cho đến giờ đi ngủ. Ðiều đó nhấn mạnh rằng tất cả những sinh hoạt đời sống hàng ngày của Tăng đoàn là hành thiền. Khi chính thức ngồi thực hiện bài tập thiền như thở, hay làm công việc quay nước giếng, hoặc thực hiện công việc Tăng đoàn, người ta chủ trương làm như vậy bằng chánh niệm và tập trung càng nhiều càng hay.
Ðiểm khác nhau giữa trung tâm thiền tích cực và thiền viện là việc trình pháp. Ở trung tâm thiền, bằng sự tu tập tích cực, thiền sư khuyến khích trình pháp mỗi ngày hoặc cách một ngày đến trình pháp, đôi khi thậm chí nhiều lần hơn cũng được. Hành giả tiếp xúc với thiền sư để trình lại những tiến trình hành thiền của mình và nhờ thiền sư động viên khuyến khích nhắc nhở, tu tập. Bởi vì tu tập tích cực những nơi như thế, đây là khía cạnh quan trọng của việc tu tập giáo pháp. Trái lại ở thiền viện việc trình pháp thì hiếm mặc dù các thiền sư thì thường hay cởi mở cho hành giả để hỏi những vấn đề thắc mắc. Bởi vì ở thiền viện việc thuyết pháp thì chú trọng hơn việc trình pháp. Trong thực tế, ở thiền viện người ta cảm nhận được cách sống có giá trị hơn, khi các thiền sinh và hành giả hiểu được câu trả lời cho chính mình, liên quan đến hoài nghi của họ, theo dõi tiến trình hoài nghi và các câu hỏi hiện ra trong tâm họ. Bằng cách này họ trực tiếp trở về cảm nhận chính mình và học cách giải quyết các vấn đề của họ được xem như một phần tu tập mà không bị dính mắc vào công việc trình pháp hàng ngày và cần đến sự hướng dẫn trực tiếp nơi vị thầy của họ. Một lần nữa chúng ta có thể nhận ra cả hai phương pháp đối với vị thầy việc trình pháp là những hình thức có hiệu quả để phát huy con đường tu tập. Sự kiện thích hợp đó tùy thuộc vào quý vị bắt đầu từ đâu và đang ở đâu”(8).
4. NHẬN XÉT TÓM LẠI
Thiền là mạng mạch của Phật giáo. Thiền thể hiện đời sống theo Bát Chánh Đạo hay Giới Định Tuệ nên đối với tự thân của mỗi vị Tăng Ni Phật tử, nếu không có thiền thì con đường tâm linh hướng về giác ngộ, giải thoát khó có thể khai phát và tiến bộ được. Đối với hàng tại gia, nếu những cơ sở sinh hoạt Phật giáo không tổ chức được các khóa tu tập, hành thiền ngắn hạn hay dài hạn cho các giới Phật tử thường xuyên thì họ sẽ không thâm nhập được chánh pháp và sẽ sớm trở thành mê tín dị đoan. Đối với hàng xuất gia nếu không xây dựng được lối sống thiền trong sinh hoạt tại chùa chiền, tự viện thì chốn tòng lâm sẽ sớm trở thành những “viện bảo tàng Phật giáo” hoặc những “cơ sở tín ngưỡng dân gian” hằng ngày chỉ đón tiếp khách hành hương tham quan, lễ bái cầu xin.
Và trong một thế giới phẳng với dầy đặc thông tin, thêm vào đó đời sống ngày càng phức tạp nhiêu khê trong các cộng đồng xã hội như hiện nay, thiền là yếu tố có khả năng làm lắng dịu các tạp chất xô bồ của cuộc sống nhiễu loạn để mỗi người quay về với chính mình.
TAI LIỆU THAM KHẢO
[1] Dīghā nikāya (Trường bộ kinh), Thích Minh Châu dịch, Kinh Đại niệm xứ.
[2] Majjhimā nikāya (Trung bộ kinh), Thích Minh Châu dịch, Kinh Thân hành niệm.
[3] Jack Kornfield (Tỳ kheo Thiện Minh dịch) (1999), Những vị thiền sư đương thời, Tp. Hồ Chí Minh.
[4]U Sīlananda Mahāthera (Tỳ-khưu Khánh Hỷ dịch) (200 ), Kinh Đại niệm xứ (luận giải).
[5] Dīghā nikāya, Mahāsatipaṭṭhāna sutta.
[6] Khuddaka Nikāya (Tiểu bộ kinh), Tỳ-khưu Viên Minh dịch, Tiểu tụng, Kinh Linh bảo.
(*). Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng Thiền học Nam truyền (Director of the Research and Application of Theravada Buddhist Meditation Center); Thành viên Hội đồng Chứng minh Giáo hội PGVN.
1. Dīghā nikāya (Trường bộ kinh), Thích Minh Châu dịch, Kinh Đại niệm xứ.
2. Dīghā nikāya (Trường bộ kinh), Thích Minh Châu dịch, Kinh Đại niệm xứ.
3. Dīghā nikāya (Trường bộ kinh), Thích Minh Châu dịch, Kinh Đại niệm xứ.
4. Dīghā nikāya, Mahāsatipaṭṭhāna sutta.
5. Dīghā nikāya (Trường bộ kinh), Thích Minh Châu dịch, Kinh Đại niệm xứ.
6. Khuddaka Nikāya (Tiểu bộ kinh), Tỳ-khưu Viên Minh dịch, Tiểu tụng, Kinh Linh bảo.
7. Jack Kornfield (Tỳ kheo Thiện Minh dịch) (1999), Những vị thiền sư đương thời, Tp. Hồ Chí Minh.
8. Jack Kornfield (Tỳ kheo Thiện Minh dịch) (1999), Những vị thiền sư đương thời, Tp. Hồ Chí Minh.
Bình luận bài viết