Thông tin

PHONG TRÀO PHẬT GIÁO MIỀN NAM ĐẤU TRANH

CHỐNG CHÍNH QUYỀN NGÔ ĐÌNH DIỆM TRƯỚC NĂM 1963

 

LÊ CUNG*
PHAN VĂN HOÀNG**

 

Theo dõi quá trình vận động chính trị của Ngô Đình Diệm và chủ thuyết “nhân vị” do Ngô Đình Nhu chủ xướng, ngay từ tháng 6-1954, khi Ngô Đình Diệm vừa mới được Nhà Trắng đưa về làm thủ tướng bù nhìn “Quốc gia Việt Nam”, giới lãnh đạo Phật giáo miền Nam đã khẳng định rằng: “Dưới chế độ Diệm cuộc sống sẽ trở nên hiểm nghèo hơn so với bất cứ thời gian nào dưới thời Pháp thuộc. Chúng ta chắc chắn phải trải qua những ngày tháng khó khăn hơn” .[1]

 Đúng như giới lãnh đạo Phật giáo miền Nam đã nhận định, sau khi nắm chính quyền, Ngô Đình Diệm với sự hỗ trợ của Mỹ đã ra sức phá hoại hiệp định Genève, ngăn chặn hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Đi liền với chính sách đó, chính quyền Ngô Đình Diệm tiến hành chính sách đàn áp, khủng bố hết thảy mọi tầng lớp nhân dân miền Nam, ác liệt nhất là chính sách “tố Cộng, diệt Cộng”, rồi Luật 10/59, ... Đối với Phật giáo, cũng từ khi mới lên cầm quyền, Ngô Đình Diệm và tay chân đã đẩy mạnh chính sách kỳ thị trên tất cả các lãnh vực từ tư tưởng - chính trị, kinh tế - xã hội đến văn hoá - giáo dục. Chính sách này ngày càng được tăng cường nhằm thực hiện âm mưu loại Phật giáo ra khỏi đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân miền Nam. Dưới chế độ Diệm mâu thuẫn xã hội biểu hiện qua “lăng kính tôn giáo” rất đậm nét. Điều này giải thích tại sao, Tăng Ni, Phật tử đã cùng với toàn thể nhân dân miền Nam liên tục tiến hành đấu tranh chống chế độ độc tài, gia đình trị, giáo trị Ngô Đình Diệm, mà đỉnh cao là phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963. Bài viết này góp phần tìm hiểu: “Phong trào Phật giáo miền Nam đấu tranh chống chính quyền Ngô Đình Diệm trước năm 1963”, để từ đó giúp chúng ta hiểu về một trong những tiền đề quan trọng dẫn đến phong trào Phật giáo miền Nam với qui mô hết sức rộng lớn trong năm 1963.

1. Những cuộc đấu tranh của tín đồ Phật giáo địa phương.

- Trong âm mưu đẩy lùi những hoạt động kinh tế của tín đồ Phật giáo, chính quyền Ngô Đình Diệm đã tìm cách vu khống họ là hoạt động chính trị. Nạn nhân bị bắt, bị tra tấn, có người bị tịch thu gia sản, kết án khổ sai, có người bị giết. Ông Vĩnh Cơ, Hội trưởng Hội Phật giáo nguyên thuỷ Việt Nam tại Đà Nẵng, một thương gia buôn bán gạo ở Đà Nẵng đã bị Toà đại hình sơ thẩm ngày 28-8-1956 của chính quyền Ngô Đình Diệm kết án 10 năm khổ sai và tịch thu gia sản. Phản ứng lại bản án nguỵ tạo của chính quyền Ngô Đình Diệm, ngày 15-10-1956, trong đơn gởi Ngô Đình Diệm, Ban Quản trị Tổng hội Phật giáo nguyên thuỷ Việt Nam tại Đà Nẵng đã đưa ra nhiều chi tiết chứng minh cho sự vô tội của ông Vĩnh Cơ, rằng: “Ông Vĩnh Cơ là người hiền lành luôn luôn có nhiệt tâm với những công cuộc từ thiện, đã có công sáng lập ra hội Phật giáo nguyên thuỷ Việt Nam được toàn thể đạo hữu tín nhiệm và mến ái.

“Đứng về phương diện tôn giáo, ông Vĩnh Cơ cũng là một tín đồ Phật giáo rất chân thật, luôn luôn tôn trọng ngũ giới và giáo lý của đức Phật đã được chư tăng thừa nhận. Gia tài hiện hữu của ông Vĩnh Cơ cũng do sự làm ăn buôn bán cần cù lâu năm mà đã có từ trước” [2] .

- Để chống lại việc chính quyền Ngô Đình Diệm cưỡng bức về Vĩnh Long “thụ huấn nhân vị”, nhiều cán bộ viên chức đã phản ứng bằng cách này hoặc cách khác để lẫn tránh. Chính Công văn số 17096/YT/VP ngày 22-8-1958 của Bộ Y tế gởi các bộ, đã tiết lộ: “Bộ tôi nhận thấy trong mỗi khoá, khi danh sách khoá sinh đã lập xong và với sự thoả thuận của các bộ, vẫn có những can thiệp vào giờ phút cuối cùng để giữ nhân viên lại, làm xáo trộn danh sách và nhiều khi, không đủ số khoá sinh đã định.

“Vì vậy, Bộ tôi quyết định, kể từ nay không chấp nhận sự can thiệp tương tự và đối với những trường hợp chạy chữa riêng để khỏi đi dự huấn luyện, Bộ tôi sẽ trình lên Tổng thống định đoạt” [3] .

- Tại các “khu dinh điền” ở Tây Nguyên, có tín đồ Phật giáo tuy đã bị buộc cải đạo qua Thiên Chúa giáo để tránh được những khó khăn do chính quyền Ngô Đình Diệm gây ra trong cuộc sống, thế nhưng sự đề kháng cá nhân của họ trước chính sách kỳ thị của chính quyền Ngô Đình Diệm được biểu hiện qua việc họ vẫn giữ vững niềm tin đối với tôn giáo của mình. Một nhân chứng cho biết: “Có một lần phái đoàn Phật giáo chúng tôi lên thăm tín đồ ở các “khu dinh điền” Tây Nguyên, xe chúng tôi cần nước để làm nguội động cơ, nhưng đi mãi chỉ thấy toàn là nhà của đồng bào Thiên Chúa, vì nhà nào cũng có thánh giá ở phía trước. Chúng tôi cho xe dừng lại, vào một ngôi nhà cạnh đường để xin nước. Khi chúng tôi bước vào nhà, thấy ở căn nhà có thờ tượng Đức Mẹ. Người chủ nhà với tâm trạng đầy bức xúc nói với chúng tôi: “Chúng con quá khổ thầy ơi! Khi thầy lên đây bị người ta bắt ép đủ điều. Chúng con buộc phải theo Thiên Chúa giáo mới nhận được “bông gạo” hàng tháng, còn không thì mọi khó khăn tai ương sẽ ập tới. Rồi người chủ nhà kéo chúng tôi lui phía sau, chỉ cho chúng tôi thấy một bàn Phật, thờ ở bên trong một vựa đựng lúa *” [4] .

- Tại Quảng Ngãi, trên núi Thiên Bút vốn có nền chùa cũ của Phật giáo, chính quyền Ngô Đình Diệm tìm cách cưỡng chiếm để cho Thiên Chúa giáo xây cất nhà thờ. Vụ này đã vấp phải sự phản kháng mạnh mẽ của tín đồ Phật giáo địa phương. Chính kết quả điều tra của chính quyền Ngô Đình Diệm cũng buộc phải thừa nhận: “Tỉnh cho công giáo được phép xây dựng nhà thờ trên núi Thiên Bút (chưa xây), Phật giáo khiểu nại còn nền chùa cũ. Đêm 25-3-1961, một số Phật tử đưa tượng Phật lên núi và phao đồn có Phật lồi, tạo cản trở an ninh ngày bầu cử tổng thống” [5] . Cuộc đấu tranh giành lại chùa ở núi Thiên Bút kéo dài cho đến đầu năm 1963, chính quyền Ngô Đình Diệm buộc phải hoãn việc xây dựng nhà thờ: “Ngày 7-2-1963, Bộ Nội vụ hoãn việc xử dụng núi Thiên Bút để xây cất cơ sở phụng tự, vì lý do an ninh - Phật giáo và công giáo đều được thông báo” [6].

- Tại Cà Mau, ngày 27-7-1961, trong lúc 200 đồng bào và sư sãi Khmer họp tại chùa Cao Dân, xã Tân Lộc để làm lễ nhập hạ, binh lính Diệm đã bắn hàng loạt súng cối vào chùa làm hơn 20 đồng bào và sư sãi chết và bị thương, chùa bị thiệt hại nặng. Lập tức, hằng trăm sư sãi đồng bào Khơme đã kéo vào thị xã Cà Mâu đòi nguỵ quyền bồi thường sinh mạng và tài sản, đòi trừng trị bọn tội phạm. Vị sư trú trì chùa đã mang hai đầu đạn súng cối đến tỉnh lỵ, cực lực phản đối tên thiếu tá tỉnh trưởng, rồi đi Cần Thơ tố cáo tội ác của Mỹ - Diệm đối với các chùa, thánh thất của các tôn giáo khác. Được sự đồng tình cảu các tôn giáo khác, vị sư trú trì lại đi Sài Gòn, vẫn mang theo hai đầu đạn đến Bộ Quốc phòng Diệm đấu tranh và yêu cầu đại sứ Campuchia can thiệp...

- Sự phản kháng của tín đồ Phật giáo đối với chính sách áp bức của chính quyền Ngô Đình Diệm có lúc được thể hiện ngấm ngầm, nhưng không kém phần quyết liệt để bảo vệ tôn giáo truyền thống của họ. Điều này được thể hiện trong việc phát triển hệ thống chùa làng. Có thể nói rằng dưới chế độ Ngô Đình Diệm chùa chiền được xây dựng nhiều nhất. Số tín đồ Phật giáo cũng gia tăng với tốc độ cao. Chính Ngô Đình Diệm cũng thừa nhận có tới 80% dân số miền Nam là Phật giáo.

Giải thích như thế nào về hiện tượng trên đây khi mà chúng ta biết rằng chính quyền Ngô Đình Diệm đã thi hành một chính sách kỳ thị Phật giáo hết sức khắc nghiệt. Một nhà sư trong giới lãnh đạo Phật giáo miền Nam lúc đó cho chúng ta một sự giải đáp hết sức thú vị: “Những năm ông (Ngô Đình Diệm) trị vì, chùa được làm nhiều nhất... Nhưng sự làm nhiều chùa dưới chế độ ông Diệm thì qủa thực là hiện tượng “áp lực cao thì phản lực cường” [7] . Mặt khác, dưới chính quyền Ngô Đình Diệm, những ai không theo một tôn giáo là vô thần. Mà vô thần dưới chế độ Ngô Đình Diệm bị xem là cộng sản, bị đặt ngoài vòng pháp luật, tức là sẽ bị khủng bố, tù đày, bắn giết. Do đó, để phản đối việc Diệm bắt ép vào Thiên Chúa giáo, nhất là phản đối việc vu cáo là cộng sản, người dân miền Nam đa số tìm đến với Phật giáo “với ý thức tỏ lòng yêu nước, mến mộ một thứ đạo đã ăn sâu vào tâm linh dân chúng từ bao đời nhờ phẩm chất cao quý đó, thứ phẩm chất kết hợp được Đạo pháp và Dân tộc, kết hợp được cả tình yêu Tổ quốc và lòng thiết tha thương quý đồng bào, đồng loại của mình” [8] .

2. Những cuộc đấu tranh được sự lãnh đạo của Tổng hội Phật giáo Việt Nam.

- Cuộc đấu tranh “đòi ngày Phật đản”. Dưới thời Pháp thuộc, số ngày nghĩ lễ của Phật giáo hằng năm bằng một nửa so với Thiên Chúa giáo. Năm 1955, Tổng hội Phật giáo Trung Phần đã gởi văn bản “thỉnh cầu” chính quyền Ngô Đình Diệm huỷ bỏ quy định bất công về số lễ và ngày nghĩ lễ tôn giáo. Sự “thỉnh cầu” không được đáp ứng, mà còn dẫn đến hậu quả ngược lại. Ngày 9-1-1956, Ngô Đình Diệm ra Dụ số 4 huỷ bỏ ngày lễ Phật đản trong danh sách những ngày nghỉ lễ tôn giáo dành cho công chức và binh sĩ.

Hành động trên đây chứng tỏ chính quyền Ngô Đình Diệm đã vượt xa hơn cả thực dân Pháp trong chính sách kỳ thị Phật giáo và lập tức gây nên sự công phẫn trong dư luận xã hội nói chung và Tăng Ni, Phật tử miền Nam nói riêng. Ngày 13-1-1956, Hoà thượng Thích Tịnh Khiết, Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam gởi kháng thư đến Ngô Đình Diệm: “Chúng tôi rất xúc động thấy báo Tin Điển số 380 ra ngày 12-1-1956, nơi trang nhất, dưới đầu đề “Những ngày lễ được nghỉ và lảnh lương” có đăng Dụ số 4 ngày 9-1-1956 ấn định ngày khánh tiết hàng năm, nội dung có 13 ngày nghỉ mà Phật giáo chỉ có 01 ngày, ... Sự công bằng đúng bản tâm và chính sách Ngài Tổng thống chúng tôi không được thấy mà các ngày nghỉ đã có lại bị giảm đi, nhất là giảm ngày lễ Đản sanh của Đức giáo chủ tôn giáo chúng tôi, một ngày lễ quốc tế. Điều đó gây cho chúng tôi một sự xúc động và kinh ngạc cực độ. Chúng tôi nghĩ báo Tin Điển đã lầm, chúng tôi không thể tin sự thật có như thế” [9] .

Sau kháng thư của Hoà thượng Thích Tịnh Khiết, Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam, nhiều đại hội Phật giáo các cấp được tổ chức và đã gởi kháng thư đến Ngô Đình Diệm đòi công nhận ngày Phật đản là ngày lễ quốc gia. Đại hội Hội Phật học Nam Việt họp tại chùa Phước Hoà (Sài Gòn) từ 15 đến 17-1-1956 gởi thỉnh nguyện thư yêu cầu chính quyền Ngô Đình Diệm:

“1. Tái lập ngày lễ Khánh đản (Phật giáng sinh) ngày 8-4 âm lịch, được nghỉ trọn ngày).

2. Cho phép nghỉ sớm mai ngày Trung nguyên (rằng tháng 7 âm lịch) thay cho buổi chiều” [10] .

Ngày 20-1-1956, Chủ tịch Hội Tăng già miền Bắc tại miền Nam gởi Ngô Đình Diệm kháng thư yêu cầu “xét lại vấn đề này một cách công bình, hầu đem lại sự vui mừng cho 90% dân số Việt Nam tin Phật đang mong muốn” [11] .

Ngày 21-4-1956, Đại hội lần thứ nhất của Tổng hội Phật giáo Việt Nam tổ chức tại chùa Ấn Quang (Sài Gòn). Đại hội đã gởi văn bản yêu cầu chính quyền Ngô Đình Diệm công nhận ngày lễ Phật đản nằm trong danh sách các ngày nghỉ lễ tôn giáo hằng năm dành cho công chức và binh sĩ.

Trước sự phản kháng mạnh mẽ của các tổ chức Phật giáo, chính quyền Ngô Đình Diệm các cấp cho đây là một mối nguy hại đe doạ đến sự sống còn của chế độ nên đã có những kiến nghị gởi Ngô Đình Diệm yêu cầu thoả mãn những đòi hỏi của Phật giáo, như ngày 3-2-1956, Toà Đại biểu Chính phủ tại Trung Việt gởi cho Ngô Đình Diệm công điện đề nghị: “Trước ngày bầu cử Quốc hội, chúng tôi kính xin Tổng thống cho sửa sắc lệnh gấp để gây ảnh hưởng tốt trong giới Phật giáo” [12] , hoặc Công văn ngày 13-4-1956 của Toà đại biểu Chính phủ tại Nam Việt gởi cho Ngô Đình Diệm viết: “Nhận thấy vấn đề này liên quan đến mối tín ngưỡng của đa số đồng bào, chúng tôi kính xin Tổng thống chấp nhận điều thỉnh cầu của Hội Phật giáo Việt Nam”. Vấp phải sự chống đối cả từ nhiều phía, kể cả một bộ phận chính quyền Sài Gòn, Ngô Đình Diệm trong cái thế “chẳng đặng đừng” phải chấp nhận những đòi hỏi của Phật giáo. Song Ngô Đình Diệm không ban hành dụ mới thay cho Dụ số 4 mà chỉ thị cho Đổng lý Văn phòng Phủ Tổng thống ra Thông báo số 5-TTP/TTK “quyết định cho các công sở nghỉ việc trọn ngày Phật đản”.[13]

Tuy vậy, năm 1957, chính quyền Ngô Đình Diệm vẫn loại bỏ ngày Phật đản ra khỏi ngày nghỉ chính thức trong năm. Trong bản kê những ngày lễ chính thức của năm 1957 do chính quyền Sài Gòn công bố ngày 14-12-1956 vẫn không có ngày nghỉ của lễ Phật đản. Điều này khiến dư luận xã hội và phía Phật giáo tiếp tục phản đối. Nổi bật nhất là Đại hội đồng Hội Việt Nam Phật học (Trung Phần) họp vào tháng 3 năm 1957 tại chùa Từ Đàm (Huế) đã sôi nổi thảo luận về vụ này và đã gởi bức điện sau đây đến Tổng hội Phật giáo Việt Nam tại Sài Gòn: “Tổng hội đồng lần thứ 25 toàn hội Việt Nam Phật học gồm có liệt vị chứng minh đại đạo sư trong Giáo hội tăng già và đại biểu 14 tỉnh hội đại diện cho 565 đơn vị họp tại chùa Từ Đàm Huế trong các ngày 8-9-10 và 11 tháng 3 năm 1957 kính đặt niềm tin tưởng vào Tổng hội. Yêu cầu liên tục tích cực can thiệp lên Chính phủ và Quốc hội công nhận ngày Phật đản mồng Tám tháng Tư âm lịch là ngày lễ hợp pháp của quốc gia. Chủ tịch đại hội đồng: Thích Thiện Minh”[14] .

Trước áp lực ngày càng gia tăng, ngày 19-3-1957, Chủ tịch Quốc hội Sài Gòn đã có Công văn số 959/VPCP gởi Ngô Đình Diệm, nêu rõ: “Vì lý do chánh trị có ảnh hưởng sâu xa đến tín ngưỡng của một số đồng bào, tôi hân hạnh kính xin Tổng thống chấp nhận điều thỉnh cầu của Hội Phật giáo Việt Nam và ra một thông cáo cho phép các công sở và trường học nghỉ vào dịp lễ ấy như mọi năm” [15] . Và khi thấy tình hình không thể không ghi ngày Phật đản vào danh sách ngày nghĩ lễ, Ngô Đình Diệm đành buộc chấp nhận, ngày 5-4-1957, Văn phòng Phủ Tổng thống ra Thông cáo 9-TTP/TTK với nội dung: “Thể theo lời thỉnh cầu của các cơ quan Phật giáo, Tổng thống cho các công sở nghỉ việc trọn ngày lễ Phật đản năm nay, nhằm ngày thứ 3 mùng 7 tháng 5 năm 1957” [16].

Phong trào đấu tranh “đòi ngày Phật đản” của Tăng Ni, Phật tử miền Nam bước đầu giành được thắng lợi. Điều các nhà nghiên cứu cần chú ý là dù cho ngày Phật đản được công nhận trở lại, dưới chế độ Ngô Đình Diệm số lễ và ngày nghĩ lễ của Phật giáo luôn luôn ít hơn số lễ và ngày nghĩ lễ của Thiên Chúa giáo. Theo bản kê các ngày nghỉ (Bản tin số 4287 ngày 1-12-1962) cho năm 1963 “Thiên Chúa giáo có 4 ngày lễ, ngày nghĩ: 2 ngày rưỡi; Phật giáo có 2 lễ, ngày nghỉ: 1 ngày rưỡi”.[17]

- Cuộc đấu tranh chống chính sách khủng bố của quyền Ngô Đình Diệm. Do chính sách khủng bố của chính quyền Ngô Đình Diệm, mà nổi bật nhất là việc bắt ép tín đồ Phật giáo cải đạo qua Thiên Chúa giáo với nhiều biện pháp tàn nhẫn, cuộc đấu tranh chống chính sách kỳ thị Phật giáo của chính quyền Ngô Đình DiệmTrước lúc phong trào Phật giáo năm 1963 bùng nổ là vào cuối năm 1961, đầu năm 1962, hàng loạt đơn khiếu nạn của tín đồ Phật giáo cũng như các cấp Phật giáo từ khuôn hội, quận hội, tỉnh hội, tổng hội gởi các cấp của chính quyền Ngô Đình Diệm từ địa phương đến trung ương. Nội dung các đơn khiếu nại vạch rõ nỗi thống khổ của tín đồ Phật giáo trước sự khủng bố của chính quyền Ngô Đình Diệm ở các địa phương, đòi chính quyền Ngô Đình Diệm thi hành chính sách bình đẳng tôn giáo, tập trung nhất là ở các tỉnh Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi.

Đơn khiếu nại đề ngày 18-7-1961 của Chi hội trưởng Chi hội Phật giáo Tuy Hoà gởi Quận trưởng quận Tuy Hoà cho biết trong cuộc hội nghị do Khuôn hội Phật giáo xã Hoà Quang tổ chức có tới 400 hội viên có cả đại diện của chính quyền xã ấy tham dự, những tín đồ Phật giáo bị áp bức, khủng bố đã can đảm “đứng lên trần tố một cách đau đớn là họ bị ban truyền giáo của hội công giáo... khủng bố bắt ép phải bỏ Phật giáo mà vào công giáo, nếu không nghe theo thì gán cho tội này tội nọ... nhất là bị oan thân và theo cộng sản v.v...” [18] . Đoạn kết thúc, đơn viết: “Chúng tôi xin yêu cầu quý quận trượng khẩn xét tình hình hiện tại để cứu vãn được an ninh để cho toàn thể nhân dân được tự do tín ngưỡng khỏi bị hăm doạ bắt buộc, vu oan một cách tàn nhẫn”[19].

Giấy báo cáo đề ngày 15-12-1961 của Khuôn trưởng Khuôn hội Phước Thắng gởi Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Bình Định viết: “Chúng tôi được báo cáo của các Vức hội toàn khuôn thì hiện nay chính quyền địa phương (cán bộ hành chánh xã thôn) lấy thế lực để uy hiếp tinh thần đạo hữu không cho đến chùa tịnh độ hằng đêm, cùng trong những buổi lễ sám hối bằng cách: Nếu đạo hữu nào đến chùa thì họ sẽ để ý ghi tên sau ghép vào tội tình nghi đưa di dân hoặc không đi di dân thì dùng mánh khoé bắt nạt, dụ dỗ bảo đạo hữu bỏ đạo để qua Thiên Chúa giáo”. Kết thúc báo cáo là sự kêu cứu khẩn thiết: “Để tránh tình trạng bi đát đau khổ kể trên, để công tác Phật sự chạy đều và để un đúc tinh thần đạo hữu hồi tâm vững mạnh tránh sự hoang mang dao động quay cờ thôi chuyển, chúng tôi thiết tha kính trình tỉnh hội thẩm trường, và kính thỉnh cầu tỉnh hội có phương thức nào cứu giúp kịp thời để hầu tránh sự tan rã của các chùa sau này”[20].

Đơn khiếu nại của Tuần chúng Giáo hội Tăng già Bình Định tại quận Tuy Phước gởi Quận trưởng quận Tuy Phước đã tố cáo tính chất bất công của chính quyền Ngô Đình Diệm trong chính sách di dân: “Nếu phải đi di dân theo tiêu chuẩn thì dù ở Phật giáo hay công giáo cũng thế mới công bằng và hợp lý, chứ tại sao khi ở Phật giáo thì có tiêu chuẩn đi di dân mà cũng con người ấy khi vào công giáo thì mất tiêu chuẩn” [21] .

Đặc biệt, ngày 20-2-1962, hội Phật giáo Trung phần đã gởi kháng thư cho Ngô Đình Diệm và Quốc hội y vạch rõ chính sách khủng bố, áp bức, giết hại Phật giáo đồ của chính quyền Ngô Đình Diệm đang diễn ra khắp nơi: “Những kẻ chủ động vừa có quyền hành tại các xã, vừa là nhân viên ban truyền giáo công giáo tiến hành, đã lợi dụng quyền hành nhà chức trách để bắt nạt, khủng bố dân lành. Có người bị chôn sống như trường hợp ông Nguyễn Chuyển, thôn Mậu Lâm, mà toà án Tuy Hoà đã chứng kiến khi thân nhân bới lên, có kẻ bị hành hạ bị tắt thở tại Phú Yên, có người đập đầu vào nhà để chết vì uất ức hay tự tử vì bất công ở Bình Định. Cho đến việc lợi dụng sự bất an để sát hại hội viên thuần thành của chúng tôi như ở Quế Sơn, Quảng Nam” [22] . Kháng thư khẳng định: “Hằng ngày chúng tôi nhận được thư từ kêu van từ nhiều nơi gởi về tỏ sự khủng bố, áp bức, bất công ở hạ tầng đối với Phật giáo chúng tôi không kể xiết” và yêu cầu Ngô Đình Diệm “công minh xét đoán gấp những nguyện vọng khẩn thiết trên cho hàng Phật tử” [23] .

Trong kháng thư gởi Quốc hội Diệm, sau khi vạch rõ những nỗi thống khổ của tín đồ Phật giáo do chính sách kỳ thị Phật giáo của chế độ Diệm gây nên, giới lãnh đạo Hội Phật giáo Trung Phần cho hay đã đến lúc tôn giáo của họ cần phải được bảo vệ: “Tình trạng giết chóc, bắt bớ, đàn áp bất công ở hạ tầng đã gây nên sự hoang mang, khủng khiếp trong hàng Phật tử chúng tôi và làm cho họ gần như mất hết tin tưởng cần thiết.

“Đề đạt tập hồ sơ này đến quốc hội, chúng tôi muốn tránh cho dân tộc một chấm đen đồng thời muốn ngăn ngừa một tai hoạ quốc gia khi mà hàng Phật tử chúng tôi thấy cần bảo vệ đúng mức tôn giáo của mình” [24] .

Những sự kiện trên đây cho chúng ta thấy rằng trước lúc bùng nổ phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963 (7-5-1963), cùng với các tầng lớp nhân dân miền Nam, cuộc đấu tranh của Tăng Ni, Phật tử miền Nam chống chính quyền Ngô Đình Diệm dưới hình thức bình thường, ẩn hiện, âm ỉ đã diễn ra liên tục. Thời gian càng đi tới, sự công phẫn càng được tích luỹ, do đó mà đối với Tăng Ni, Phật tử, họ thấy “đã đến lúc tôn giáo của họ cần phải được bảo vệ”.

Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng cho tới trước ngày 7-5-1963, phản ứng của Phật giáo trước chính sách kỳ thị Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm chỉ dừng lại ở trong khuôn khổ “thỉnh cầu” chế độ giải quyết, chứ chưa đề ra được những mục tiêu và hành động đấu tranh cụ thể khi mà những nguyện vọng của họ không được chính quyền Ngô Đình Diệm thoả mãn. Tinh thần này được tỏ rõ trong quan điểm của giới lãnh đạo Phật giáo miền Nam vào đầu năm 1963. “Chúng ta hy vọng rằng, sẽ thực hiện tinh thần bình đẳng không còn có những “kỳ thị tôn giáo”, xem tôn giáo này là trọng, tôn giáo kia là khinh, nếu những tôn giáo ấy đã được lịch sử nhân loại chứng minh là xứng đáng. Người Phật tử “chân chính”, từ xưa đến nay, không bao giờ có tư tưởng hay hành động kỳ thị tôn giáo, nên cũng rất ước mong rằng, tín đồ các tôn giáo khác đối với đạo Phật cũng thế, để hàn gắn bớt nỗi đau thương cho con người và hoàn thành danh nghĩa “tự do, bình đẳng” mà mọi người đang hô hào, đang chờ đón” [25] . Và chính vì vậy, mà quần chúng Phật tử chưa thật sự được huy động vào cuộc đấu tranh dầu cho họ đã muốn “nhập cuộc”. Hồi ký của một Phật tử viết: “Cuộc khủng bố vẫn tiếp diễn ở Phú yên, Bình Định, Quảng Ngãi. Phật tử bị chôn sống, bị thủ tiêu, áp bức đủ điều. Các báo cáo dồn dập gởi về cho Ban Hướng dẫn Gia đình Phật tử Trung Phần. Lần nữa trò phải hỏi thầy: Đến nước này mà Hội và quý thầy khống đối phó thì chắc chết hể, mà anh em Gia đình Phật tử chúng tôi chết trước” [26] .

Dĩ nhiên, không phải giới lãnh đạo Phật giáo miền Nam không nắm bắt được những đau khổ cũng như sự công phẫn của quần chúng Phật tử đã lên cao trước chính sách kỳ thị Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm, nhưng theo họ điều kiện cần thiết cho việc phát động một phong trào đấu tranh chưa đến. Trả lời những thắc mắc trên đây cho tín đồ Phật tử, một vị sư trong giới lãnh đạo Phật giáo miền Nam đã nói: “Biết vậy, nhưng chưa đến lúc” [27] .

Tóm lại, cho đến trước khi phong trào Phật giáo miền Nam bùng nổ năm 1963, cùng với phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam, cuộc đấu tranh của Tăng Ni, Phật tử miền Nam chống chính quyền Ngô Đình Diệm, lúc bình thường, lúc ẩn hiện và ở những mức độ khác nhau nhưng đã diễn ra khá liên tục. Tuy chưa tiến đến một cao trào đấu tranh trên quy mô rộng lớn, song những cuộc đấu tranh của Tăng Ni, Phật tử miền Nam đã góp phần làm suy yếu thế đứng chính trị của chính quyền Ngô Đình Diệm, làm cho nội bộ chúng mâu thuẫn, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho phong trào cách mạng miền Nam phát triển. Trong điện chào mừng Đại hội các nhà sư, họp ngày 18-10-1961, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam miền Đông Nam Bộ khẳng định: “Từ 7 năm qua, giới Tăng Ni và Phật tử đã luôn anh dũng xả thân vì nguyện hoà bình, độc lập, thống nhất của nhân dân, đã cùng với tầng lớp đồng bào đấu tranh chống kẻ thù xâm lược là bọn đế quốc Mỹ và tay sai Ngô Đình Diệm. Nhiều vị đã anh dũng hy sinh. Thành tích đó đã làm rạng rỡ giới Phật giáo và góp phần quan trọng vào việc mở rộng đoàn kết giáo lương, dân tộc, đưa đến sự thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ngày nay” [28] . Mặt khác, thông qua những cuộc đấu tranh, Tăng Ni, Phật tử miền Nam càng nhận rõ bản chất độc tài, phản dân tộc của chính quyền Ngô Đình Diệm, bước đầu hình thành, chuẩn bị đội ngũ, đón thời cơ cho một phong trào đấu tranh rộng lớn và quyết liệt hơn.

 


* Phó Giáo sư, Tiến sĩ Sử học, ĐHSP, Đại học Huế.

** Tiến sĩ Sử học, ĐHSP TP. Hồ Chí Minh.

1 Jerrold Schecter. The New Face of the Buddha. John Weatherhill, Tokyo, Japan, 1967, tr.156.

2 Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu SC. 11-HS.178L.

3 Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu SC. 01-HS.2421.

Trong bài “Ánh đuốc Quảng Đức và một vài điều chưa nói về Phật đản 1963”, Hoàng Nguyên Nhuận cho biết thêm một chi tiết tương tự: “Trong một chuyến công tác của phái đoàn Phật giáo lên Cao nguyên thăm đồng bào Phật tử tại các khu dinh điền. Phái đoàn chứng kiến: Có một gia đình hai vợ chồng và năm người con, mời phái đoàn vào nhà đóng cửa lại rồi chỉ nhãn hiệu bao hương có hình Phật Bà Quan Âm dán nơi cột nhà làm bàn thờ, đêm đêm cả nhà xúm quanh cột nhà niệm Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát”. Chuyển luân, Website, tháng 5-2005”.

4 Phỏng vấn Pháp sư Thích Giác Đức ngày 20-10-1995 tại Boston (USA)

5 Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu SC.04-HS.8356

6 Như chú thích 1.

7 Thích Trí Quang. Cuộc vận động của Phật giáo Việt Nam. Tuần báo Hải Triều Âm, số 17, ngày 19-8-1964, tr.2.

8 Bùi Thị Kim Quỳ. Một số đặc điểm của Phật giáo trong khung cảnh chính trị và tư tưởng của xã hội miền Nam trong thời kỳ lịch sử 1954 - 1975 trong “Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam”. Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Triết học, Hà Nội, 1986, tr.168.

9Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu SC. 11-HS. 22462.

10 Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu SC. 11-HS. 22462.

11 Như chú thích 1.

12 Như chú thích 1.

13 Như chú thích 1.

14 Nguyễn Lang. Việt Nam Phật giáo sử luận. Nxb. Văn học, Hà Nội, 1994, tr. 386.

15 Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu SC. 11-HS. 22462.

16 Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu BT.542.

17 Thích Trí Quang. Cuộc vận động của Phật giáo Việt Nam. Tuần báo Hải Triều Âm, số 15, ngày 30-7-1964, tr.2.

18 Hồ sơ gởi Tổng thống và Quốc hội của Hội Phật giáo Trung phần ngày 20-2-1962 (bản đánh máy), tr. 6.

19 Hồ sơ đd., tr. 7.

20 Hồ sơ đd., tr. 39.

21 Hồ sơ đd., tr. 35.

22 Hồ sơ đd., tr.2.

23 Hồ sơ đd., tr. 3.

24 Hồ sơ đd., tr. 3.

25 Nguyệt san Liên Hoa (của Hội Phật giáo Trung phần), Huế, ngày 8-2-1963, tr. 3-4

26 Tâm Phiệt. Những đốm lửa đấu tranh trong “Trước cơn sóng gió”. Ban Hướng dẫn gia đình Phật tử Trung phần xuất bản, Huế, 1964, tr. 11

27 Tâm Phiệt. Tài liệu đã dẫn, tr.11.

28 Hùng Lý. Tôn giáo miền Nam đấu tranh chống Mỹ - Diệm. Nxb. Phổ thông, Hà Nội, 1962, tr. 34.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 10)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 9)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 8)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 25
    • Số lượt truy cập : 6712243