Thông tin

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH - CHUYỂN BIẾN

PHẬT GIÁO CỔ TRUYỀN VIỆT NAM

VÀ SỰ ĐÓNG GÓP NI GIỚI CỦA HỆ PHÁI

 

Ni trưởng THÍCH NỮ HUỆ HƯƠNG
Ủy viên HĐTS, Phó Phân ban Ni giới TW,
Phó BTS GHPGVN tỉnh Đồng Nai,
Trưởng Phân ban Ni giới tỉnh Đồng Nai

 

Kính bái bạch: Chư Tôn Đức Giáo phẩm lãnh đạo Trung ương GHPGVN,

Kính bạch: Chư Tôn Đức Tăng Ni hiện diện,

Kính thưa Quý vị đại biểu,

Lời đầu tiên xin thay mặt Ni giới nói chung, Ni giới Phật giáo Cổ truyền Việt Nam nói riêng, kính cầu nguyện chư Phật gia hộ Chư Tôn Đức lãnh đạo Giáo hội, quý Sư trưởng, Ni trưởng, quý Ni sư pháp thể khinh an, Phật sự viên thành. Chúng tôi gửi lời cám ơn và kính chúc sức khỏe đến quý vị lãnh đạo Nhà nước, Ban Tôn giáo Chính phủ, và các ban ngành liên quan, quý vị nhân sĩ trí thức và quý cấp lãnh đạo tại tỉnh Bình Dương. Chúc hội thảo thành công tốt đẹp.

Kính bạch Chư Tôn Đức,

Thưa quý đại biểu,

Chư Tôn Đức Trưởng lão lãnh đạo hệ phái Phật giáo Cổ truyền Lục Hòa Tăng, là hệ phái lấy tinh thần phụng đạo giúp đời, quý ngài thực hiện châm ngôn “Đất nước có phồn vinh, thì đạo pháp mới xương minh”. Do vậy, quý ngài luôn phát huy tinh thần yêu nước, và kêu gọi Tăng, Ni, Phật tử trong việc phụng sự đạo pháp, dân tộc. Với tinh thần cao đẹp trên và cũng từ đó Phật giáo cứu quốc ra đời, góp phần nhỏ của hệ phái trong việc tham gia kháng chiến cứu quốc.

Để tôn vinh, ghi nhận những giá trị lịch sử trọng đại của các bậc danh Tăng và tổng hợp những tư liệu lịch sử, về tổ chức hệ phái Phật giáo Cổ truyền Lục Hòa Tăng, nhằm tri ân và báo ân những bậc tiền nhân đã cống hiến trọn đời mình cho đạo pháp, dân tộc, nhất là cho hệ phái Phật giáo Cổ truyền Lục Hòa Tăng. Với mong muốn thế hệ mai sau tiếp nối và phát huy tinh thần yêu nước, phụng sự đạo pháp, dân tộc mà Chư Tôn Đức Trưởng lão tiền bối đã dày công xây dựng Phật giáo Cổ truyền. Điều quan trọng là làm sao, duy trì và phát triển, góp phần cùng Giáo hội, ngày được xương minh, cống hiến công sức vào công cuộc xây dựng bảo vệ Giáo hội và đất nước.

Kính thưa Quý liệt vị,

Vào ngày 02/09/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại vườn hoa Ba Đình (nay gọi quảng trường Ba Đình) – Hà Nội. Toàn dân cả nước nói chung, Phật giáo nói riêng, đều rất vui mừng, hân hoan chào đón. Ở Hà Nội cờ hoa rực rỡ. Sài Gòn có Giáo sư Trần Văn Giàu là Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ, nhân dân miền Nam nói chung và nhân dân Sài Gòn nói riêng đã thể hiện lòng quyết tâm ủng hộ cách mạng, ủng hộ Mặt trận Việt Minh, bảo vệ nền độc lập non trẻ của Việt Nam. Lễ đài lễ độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại Sài Gòn, đặt trên đường Cộng Hòa (nay là đường Lê Duẩn), ngay phía sau nhà thờ Đức Bà. Hầu hết người dân Sài Gòn đều đổ ra đường, thành một biển người chưa từng thấy ở thành phố này. Cờ rợp trời: cờ đỏ sao vàng của Việt Minh, cờ các nước đồng minh, cờ của các đoàn thể. Khẩu hiệu giăng đầy các con đường lớn: “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa muôn năm!”, …Nhưng vào ngày 23 tháng 9 năm 1945, thực dân Pháp tái đánh chiếm Sài Gòn - Gia Định và chiếm lĩnh chính sự tiếp tục. Nhân dân ta chỉ hưởng 21 ngày và sau đó đi vào con đường kháng chiến chống Pháp.

1. Khái quát về sự hình thành Hội Phật giáo cứu quốc tại tỉnh Biên Hòa

Từ cách mạng tháng tám về sau, hầu hết các tỉnh Nam Bộ, đều có Hội Phật giáo cứu quốc. Đó là phương châm đấu tranh thời đất nước loạn ly, nên có câu đối như sau:

“Cải cách Tăng đồ, đề xướng tự do, tuyên chánh pháp;

Duy tân Phật học, thực thành bình đẳng, độ quần sanh”.

Do tinh thần đó, chư Tăng Ni Phật giáo “cởi áo cà sa khoác chiến bào”, cách ly chùa chiền tham gia kháng chiến. Cho nên đến năm 1945 - 1946, khi các Hội Phật giáo cứu quốc tại các địa phương Nam Bộ ra đời, như Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Bà Rịa, Mỹ Tho, Tây Ninh, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Long Xuyên, Bạc Liêu, Rạch Giá… đã được thành lập1. Trong bài này, chúng tôi chỉ đề cập tại tỉnh Biên Hòa.

Vào ngày 06/9/1945, được sự giúp đỡ của Mặt trận Việt Minh tỉnh Biên Hòa, cử Hội Phật giáo cứu quốc tỉnh Biên Hòa. Tăng Ni và Phật tử bầu Đại lão Hòa thượng Thích Huệ Thành làm Hội trưởng kiêm Ủy viên Mặt trận Việt Minh tại tỉnh Biên Hòa. Trụ sở Hội Phật giáo cứu quốc đặt tại chùa Long Thiền – Biên Hòa và chùa Long Thiền bây giờ là nơi nhận truyền đơn của Mặt trận Tổ quốc (sắp thành lập) gởi đi khắp các chùa trong tỉnh2.

Dưới đây là danh sách, Ban Chấp hành Phật giáo cứu quốc tỉnh Biên Hòa năm 1945 tại Tổ đình Long Thiền, gồm: 1. Hội trưởng: Đại lão Hòa thượng Thích Huệ Thành, trụ trì Tổ đình Long Thiền, bí danh Hồng Tín kiêm Ủy viên Mặt trận Việt Minh tỉnh Biên Hòa; 2. Phó Hội trưởng: Thầy Yết ma Thiện Ân, trụ trì chùa Đại Giác; 3. Tổng Thư ký: Thượng tọa Thích Thiện Thuận, bí danh Hoàng Anh, Thư ký chùa Đại Giác; 4. Tài chánh: Thầy Yết ma Thích Thiện Niệm, trụ trì chùa Hiển Lâm (chùa Hóc Óng Che); 5. Kiểm soát: Hòa thượng Thích Trí Tấn, trụ trì chùa Hưng Long (huyện Tân Uyên) tỉnh Biên Hòa cũ; 6. Ủy viên: Hòa thượng Thích Thiện Khải, trụ trì chùa Thanh Lương; 7. Ủy viên: Thầy Yết ma trụ trì chùa Tân Sơn; 8. Ủy viên: thầy Giáo thọ Thích Tịnh Quang, trụ trì chùa Thanh Long; và 9. Ủy viên Liên lạc: Thầy Giáo thọ Thích Quảng An, trụ trì chùa Thiên Long. Đây là 09 thành viên của Hội Phật giáo cứu quốc đầu tiên tại tỉnh Biên Hòa.

Từ đó, Đại lão Hòa thượng Hội trưởng kêu gọi các Chi hội trong toàn tỉnh lần lượt ra đời, từ các quận đến các xã…tham gia các hoạt động kháng chiến và tham gia bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và vận động Tăng Ni Phật tử tham gia phong trào: ‘Tuần lễ vàng’, ‘Tuần lễ kim khí’, các chùa đã hưởng ứng hiến lư đồng, đại hồng chung, chân đèn…. gửi vào chiến khu để đúc vũ khí. Lúc bây giờ, Đại lão Hòa thượng Thích Huệ Thành cùng một số Tăng Ni thoát ly đi kháng chiến. Trong thời gian này, Hòa thượng Thích Thiện Khải với vai trò vừa thầy cúng, vừa viết liễn (chữ Hán) để bí mật hoạt động nội thành. Trong lúc này, nhiều Tăng Ni bị giam cầm hoặc bị sát hại, như tại chùa Hiển Lâm (chùa Hóc Óng che) có ông Hườn là một chiến sĩ kháng Pháp bị giặc Pháp bắn chết tại cổng chùa Hiển Lâm, hiện nay vẫn còn di tích.

Đây cũng là giai đoạn ác liệt chống giặc ngoại xâm, như năm 1947 (Đinh Hợi), Đại lão Hòa thượng Thích Huệ Thành và các tổ chức Hội Phật giáo cứu quốc ở các tỉnh Nam Bộ, được mời về chùa Thiền Kim (tức chùa Ô Môi) ở xã Mỹ Quý, tỉnh Đồng Tháp, hội nghị 3 ngày 15,16,17/4/1947 và ra nghị quyết bầu Ban Chấp hành Phật giáo cứu quốc Nam Bộ, gồm quý vị như sau: Chánh Hội trưởng: Đại lão Hòa thượng Thích Minh Nguyệt (bí danh Tam Không); Đệ nhất Phó Hội trưởng kiêm Ủy viên Mặt trận Liên Việt Nam Bộ: Đại lão Hòa thượng Thích Huệ Thành (bí danh Hồng Tín), Hội trưởng Hội Phật giáo cứu quốc tỉnh Biên Hòa; Đệ nhị Phó Hội trưởng: cụ Bạch Liên nhân sĩ trí thức (thường gọi là ông Commis Hai); Tổng Thư ký: ông Đào Không Không3; Tuyên huấn: thầy Lê Hoàng Minh; Tài chánh và thủ quỹ: thầy Bửu Thiện và Sư bà Diệu Thọ; Kiểm soát: Hòa thượng Thích Pháp Tràng, thầy Huệ Phương (bí danh Bạch Vân); và nhiều ủy viên phụ trách các tỉnh gồm 11 vị4. Và sau Đại hội, các thành viên trong Ban chấp hành được phân công như sau:

- Đặc trách miền Tây Nam Bộ: Hòa thượng Thích Minh Nguyệt, Hòa thượng Thích Pháp Tràng, thầy Lê Hoàng Minh;

- Đặc trách niềm Đông Nam Bộ: Hòa thượng Thích Huệ Thành, thầy Huệ Phương (bí danh Bạch Vân);

- Đặc trách Sài Gòn và tỉnh Gia Định: Hòa thượng Thích Pháp Dõng, Hòa thượng Thích Thiện Hào, Hòa thượng Thích Bửu Ý;

- Bộ phận Thường trực: Phó Hội trưởng thường trực: cụ Bạch Liên; Tổng Thư ký: ông Đào Không Không; Trưởng văn phòng: thầy giáo Ánh và các nhân viên văn phòng khác.5

Lúc bây giờ, lấy tờ báo Tinh Tấn làm cơ quan ngôn luận của Phật giáo cứu quốc Nam Bộ, do Đại lão Hòa thượng Thích Minh Nguyệt làm Chủ nhiệm, Giáo sư Lê Văn Đồng, bút hiệu Trọng Thư - La Kim Trọng làm chủ bút, tòa soạn và nhà in ở chùa Tổ, xã Mỹ Tho, tỉnh Đồng Tháp. Sau Đại hội thành lập Ban Chấp hành Phật giáo cứu quốc Nam Bộ, nhờ sự thống nhất chỉ đạo, nên chư Tăng Ni và Phật tử tích cực hoạt động đồng bộ, góp phần nhiều hơn nữa cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Do sự phân công miền Đông, miền Tây và Sài Gòn – Gia Định, vì vậy tổ chức Phật giáo hoạt động đều khắp, động viên Tăng Ni và đồng bào Phật tử hưởng ứng các phong trào, như: phát hành công trái kháng chiến, tổ chức Hội viên danh dự cho Hội Liên Việt… Nhờ vậy mà Tăng Ni, Phật tử trong vùng địch tạm chiếm, ủng hộ kháng chiến có điều kiện giúp đỡ, nhất là các hoạt động ở Thành được các tổ chức che dấu, nuôi dưỡng. Do đó, phong trào cách mạng trong nhân dân được phát động mạnh mẽ, làm cho thực dân Pháp, Mỹ ngụy và những tay sai phải kkiếp sợ.

2. Giáo hội Lục Hòa Tăng ra đời

Vào tháng 2/1952, tập hợp được một số danh Tăng mở Đại hội tại chùa Long An, số 136, đường Cộng Hòa (nay là đường Nguyễn Văn Cừ), thuộc quận Nhì, Sài Gòn, ra tuyên bố thành lập Giáo hội Lục Hòa Tăng Việt Nam, bầu ra Hội đồng chứng minh và Ban chức sự Trung ương Giáo hội, gồm quý vị như sau:

Hội đồng Chứng minh: Đại lão Hòa thượng Thích Đạt Thanh, chùa Giác Ngộ; Đại lão Hòa thượng Thích Hoằng Đức, chùa Bình Hòa; Đại lão Hòa thượng Thích Phước An, chùa Bảo Quốc.

Ban Chức sự Trung ương: Tăng trưởng: Hòa thượng Thích Thiện Tòng, chùa Trường Thạnh; Tăng giám: Hòa thượng Thích Pháp Nhạc, chùa Long An; Tổng Thư ký: Hòa thượng Thích Thành Đạo, chùa Phật Ấn.

Ban Hoằng pháp: Hòa thượng Thích Huệ Thành, chùa Long Thiền; Hòa thượng Thích Pháp Lan, chùa Khánh Hưng và một số Ủy viên đặc trách nội, ngoại thành các tỉnh.

Xuất bản tập san Phật học tạp chí, do ông Lý Duy Kim (Hòa thượng Thích Minh Nguyệt) làm Tổng biên tập, mở Trường Phật học tại chùa Giác Viên, văn phòng Trung ương Giáo hội đặt tại chùa Trường Thạnh, số 79, đường Bác sĩ Yersin, quận Nhì, Sài Gòn6. Thực chất đây là một Giáo hội vừa hoạt động đạo pháp, vừa là dân tộc nên Giáo hội Phật giáo Lục Hòa Tăng Việt Nam được thành lập tháng 02 năm 1952, mãi đến năm 1957 mới được Chính phủ Việt Nam Cộng hòa hợp thức hóa, tại Quyết định số 93/BNV/ NA/P5, Bộ Nội vụ ký ngày 01/10/1957, do Hòa thượng Thích Thiện Tòng (chùa Trường Thạnh) đại diện xin thành lập Giáo hội Lục Hòa Tăng Việt Nam, có Hiến chương, gồm 9 chương và 44 điều.

Ban Trị sự Hội Lục Hòa Phật tử, do Hòa thượng Thích Minh Thành làm Chánh Hội trưởng, Hòa thượng Thích Thiện Hào làm Phó Hội trưởng, Thượng tọa Thích Minh Giác làm Tổng Thư ký. Trụ sở Hội Lục Hòa Phật tử, đặt tại chùa Long Vân (Bình Thạnh – Gia Định).

Đến cuối năm 1953, Hòa thượng Thích Huệ Thành trên cương vị Trưởng ban Hoằng pháp của Giáo hội Lục Hòa Tăng Việt Nam, đã từng bước củng cố và mở rộng Giáo hội đến vùng sâu vùng xa đến các tỉnh miền Tây, nhất là miền Đông, nhiều người gọi ngài là “ông Cọp miền Đông”.

Vào tháng 6/1954, Mỹ đưa Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, lúc đó, chính quyền Ngô Đình Diệm dùng nhiều thủ đoạn để ép những người theo Phật giáo yêu nước, như thực thi Đạo vụ số 10, nhằm cô lập toàn bộ hoạt động của Phật giáo. Lúc bấy giờ, Giáo hội Phật giáo Lục Hòa Tăng lại bị chính quyền chú ý, nhận ra đây là lực lượng tổ chức hợp pháp, những công dân yêu nước phát áo nâu sồng nhằm hoạt động đấu tranh chống Ngô Đình Diệm và tay sai. Do đó chính quyền Diệm truy lùng, bắt bớ bằng cách trá hình là bắt tu sĩ Phật giáo thuộc tổ chức Lục Hòa Tăng phải nhập ngũ quân đội. Song song đó chính quyền Ngô Đình Diệm dựng cho tổ chức “Cổ Sơn Môn” được nhiều đặc ân, trong đó có đặc ân là người tu sĩ Phật giáo “Cổ Sơn Môn” được miễn dịch, nhưng cũng có các chùa miền Tây không theo sự chỉ đạo của Ngô Đình Diệm, trong đó có chùa Tam Bảo, chùa Vĩnh Phước – Kiên Giang và một số các chùa trong tỉnh…

Trong giai đoạn này, Đại lão Hòa thượng Thích Huệ Thành hoạt động rất khéo léo, âm thầm hoạt động cách mạng. Rồi thầy Yết ma Thiện Niệm viên tịch, một vị pháp muội như cánh tay mặt tay trái đã ra đi, để lại cho ngài biết bao sự lo toan, Tổ đình Long Thiền bấy giờ không ai giao phó được, hơn nữa bệnh đau bao tử của ngài thêm nặng hơn, cần phải dưỡng bệnh, tuy Tổ đình Long Thiền bị phong tỏa không ai đến được, cố Đại lão Hòa thượng Thích Huệ Thành và đại chúng không ra được khỏi chùa, dù xã hội có như thế nào Đại lão Hòa thượng Thích Huệ Thành vẫn âm thầm hoạt động không ra mặt. Đến năm 1963, Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu, phong chào đấu tranh Ngô Đình Diệm quyết liệt, thì lúc đó Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết vào Nam, trú tại chùa Xá Lợi và viết thư thỉnh Đại lão Hòa thượng Thích Huệ Thành xuống chùa Xá Lợi để bàn bạc Phật sự. Nội dung thư Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết viết như sau: “Tổng hội Phật giáo Việt Nam. Văn Phòng Thường trực. Chùa Xá Lợi. 89, đường Bà Huyện Thanh Quan, Sài Gòn. Dây nói: 22.465…PL 2507 – Sài Gòn, ngày 5 tháng 7 năm 1963. Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Hội chủ Tổng hội Phật giáo V.N. Kính gởi: Hòa thượng Huệ Thành, Tăng giám Giáo hội Lục Hòa Tăng, Chùa Long Thiền - Biên Hòa. Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Bạch Hòa thượng. Từ lâu có ý nguyện thăm viếng chư Hòa thượng và chiêm bái các Tổ đình miền Nam. Nhưng hôm vào đến nay trên hai mươi hôm rồi, tôi chưa đi đâu được cả, vì phần tuổi già sức yếu, phần khổ bệnh đeo mang. Tuy nhiên dầu nằm một chỗ, tôi rất thấu hiểu thái độ cao quý và nổi khổ tâm của Hòa Thượng, vì vậy tôi lấy làm thâm cảm và hết sức tán thán “đơn tâm vị Pháp” cuả Hòa thượng. Nhân bệnh tình tôi có phần thuyên giảm, tôi vội vã viết thư này kính thỉnh Hòa thượng thừa nhàn quang lâm chùa Xá Lợi để huynh đệ chúng ta cùng đàm Phật sự cho phỉ tình hoài vọng của tôi. Kính chúc Hòa thượng pháp thể khinh an./. (Ký tên) Thích Tịnh Khiết (bằng chữ Hán) (và đóng dấu) Ban Trị sự Tổng hội Phật giáo Việt Nam” (Bức thư này hiện đang được lưu trữ tại Tổ đình Hội Khánh – tỉnh Bình Dương một bản). Trong thời điểm này lời Thầy tôi (cố đại lão Hòa thượng Thích Huệ Thành) kể lại: “lá thư này không gửi được tận tay, phải nhờ hai cụ già đệ tử Thầy tôi, tục gọi là bà Năm Cây Khế và bà Tám Vạn để trong giỏ trầu, xin vào chùa thăm mới đem vào được”.

Trên đây là nội dung bức thư Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết là Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam rất ân cần gặp Đại lão Hòa thượng Thích Huệ Thành trong lúc này. Đến năm 1968, Đại lão Hòa thượng Thích Huệ Thành thấy thời cơ đã đến, nên cùng Chư Tôn Đức thành lập Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam.

3. Giáo hội Phật giáo Cổ truyền được thành lập

Lúc bây giờ, cùng Tăng Ni và Phật tử tất cả từ miền Bắc Trung Phần, miền Nam Trung Phần, Cao nguyên Trung Phần, miền Đông Nam Phần, miền Tây Nam Phần, đều thống nhất Hội nghị và bầu ra Hội đồng chỉ đạo, gồm có Viện Tăng thống và Viện Hoằng đạo.

Viện Tăng thống có những thành viên như sau: Tăng thống: Hòa thượng Thích Huệ Thành (Đại Tăng trưởng Giáo hội Lục Hòa Tăng, Tổ đình Long Thiền, Biên Hòa); Phó Tăng thống: Hòa thượng Thích Minh Thành (Hội trưởng Lục Hòa Phật tử, chùa Long Vân – Bình Thạnh); Tổng Thư ký: Hòa thượng Thích Trí Tấn (chùa Hưng Long); Ủy viên: Hòa thượng Thích Hoằng Thông (chùa Long Hội Mỹ Tho); Hòa thượng Thích Pháp Tràng (Tiền Giang); Hòa thượng Thích Trí Hiền (Biên Hòa). (trong bài báo cáo của Đại lão Hòa thượng Thích Huệ Thành có ghi trong Viện Tăng thống thêm các Ủy viên: Hòa thượng Thích Thiện Phú (Phó Tăng giám Giáo hội Lục Hòa Tăng); Ông Quản Trọng (Phó Hội trưởng Lục Hòa Phật tử và ông Tô Quang Ngọc).

Viện Hoằng đạo: Viện trưởng Viện Hoằng đạo: Hòa thượng Thích Minh Đức (nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng chỉ đạo Trung ương); Phó Viện trưởng Viện Hoằng đạo: Hòa thượng Thích Thiện Thuận; Tổng Thư ký Viện Hoằng đạo: Hòa thượng Thích Bửu Ý (chùa Long Thạnh). Trong thời gian này, sau khi ra tù Hòa thượng Phật Ấn được Giáo hội suy cử Trưởng ban Hoằng pháp thuộc Viện Hoằng đạo Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Lục Hòa Tăng.

Hội nghị cử các Tổng Vụ trưởng và phân công phục trách các Miền, như Viện Tăng thống, đặt tại chùa Trường Thạnh, đường Bác sĩ Yersin, quận Nhì - Sài Gòn; Viện Hoằng đạo, đóng tại Tổ đình Giác Lâm, xã Phú Thọ Hòa, quận Tân Bình - Gia Định7. Và bản Hiến chương Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam (Lục Hòa Tăng và Lục Hòa Phật tử) gồm có 12 chương và 20 điều. Phần cuối bản Hiến chương có ghi: “Bản Hiến chương này đã được tuyên đọc trong ngày Đại hội thường niên Trung ương ngày 09/11/1968, và được chấp nhận do hai vị Tổ sư đương kim Bửu Lâm, Long Quang, Hội đồng Trưởng lão tối cao, Hội đồng Viện Tăng thống, Hội đồng Viện Hoằng đạo, các Đại diện miền Bắc Trung phần, miền Nam Trung phần Cao nguyên Trung phần, niềm Đông Nam phần, miền Tây Nam phần, đại biểu 32 Tỉnh hội và 84 Quận hội trong toàn quốc.

Bản Hiến chương này đã được điều chỉnh lại kỳ Đại hội thường niên vào ngày 15, 16 tháng 02 năm Nhâm Tý, nhằm ngày 29, 30/3/1972 của Hội đồng Viện Tăng thống và Viện Hoằng đạo8 . Trong bản Hiến chương này, có sự giúp đỡ của ông Lê Quốc Sử, cán bộ đặc trách về Tôn giáo Phật giáo (sau này ông lấy tên mới là Lê Văn Truyện là chuyên viên Viện Kiểm sát Nhân dân Tp. Hồ Chí Minh) và Hội nghị thống nhất lấy tờ Đặc san Thái Bình làm cơ quan ngôn luận của Phật giáo Cổ truyền Việt Nam.

Lúc bấy giờ đúng thời cơ, Phật giáo Cổ truyền Việt Nam hoạt động càng ngày càng mạnh. Cho nên xây dựng tổ chức phát huy sức mạnh, phát triển cả lượng và chất, như Phật giáo Cổ truyền Việt Nam tổ chức được 32 Tỉnh hội, 84 Quận hội, 5 Ban chức sự Miền và bao gồm hơn 2.000 ngôi tự viện, 10.750 Tăng Ni, 20.500 đạo chúng và gần 1.000.000 tín đồ. Hội đồng chỉ đạo triển khai và hình thành các đoàn thể để tạo thế lực, làm hậu thuẩn Giáo hội và nắm chắc thực lực chủ động đẩy mạnh các phong trào hoằng pháp, như tổ chức Liên hiệp Nghiệp đoàn lao động Phật tử, văn phòng Trung ương đặt tại Công trường tháp Xá lợi, số 167, đường Lạc Long Quân, xã Phú Thọ Hòa, quận Tân Bình (Gia Định). Tổng đoàn thanh niên Tăng Ni, văn phòng Trung ương đặt tại chùa Thiên Tôn số 117/9 đường An Bình (Chợ Lớn). Số lượng đoàn viên có 2.114 thanh niên Tăng Ni. Liên đoàn thanh thiếu niên, sinh viên, học sinh, Phật tử bao gồm học sinh các trường Văn hóa Tiểu học Lục Hòa trên toàn quốc và thành Sài Gòn, Gia Định, văn phòng Trung ương đặt tại Trường Tiểu học Lục Hòa, số 167 đường Lạc Long Quân, xã Phú Thọ Hòa, Tân Bình (Gia Định). Số lượng học sinh gần 2.000 em. Gần 100 tổ chức Ban hợp pháp, được xây dựng lên, như: Hội Vu Lan, Đoàn Hộ niệm, Tổ đọc báo, Hụi không lời, Ban hộ trì Tam bảo, Hội tương tế, cứu trợ, Hội vần đổi công cho các quận ngoại thành để tập họp rộng rãi quần chúng, giáo dục đưa cao trào đánh giặc9.

Trong khoảng thời gian này, xóm ga Biên Hòa tại chùa Thanh Long có Đại đức Tịnh Quang, thủ quỹ Ban chấp hành Hội Phật giáo cứu quốc Nam Bộ tỉnh Biên Hòa trong thời kỳ chống Pháp, nhưng đến chống Mỹ luôn thể hiện ủng hộ cách mạng, nhất là trận tấn công tết Mậu Thân (1968) đã bảo bọc cho chiến sĩ bộ đội tại chùa để tấn công vào thị xã Biên Hòa.

Đến năm 1973, khi có Hiệp định Ba Lê ký kết, thì có cuộc trao trả cán bộ chánh trị, trong số cán bộ chánh trị, có 18 cán bộ bị địch giam cầm tra tấn bại liệt, chính quyền Sài Gòn lúc bấy giờ không dám trả về Sài Gòn, vì sợ dư luận quốc tế nên chúng mới đem thả xuống ga Biên Hòa. Lúc đó, Ni trưởng Huệ Hương làm giám tự tại chùa Thanh Long, xuất phát từ lòng yêu nước với tâm từ Phật dạy, can đảm đem 18 vị cán bộ về chùa Thanh Long mời bác sĩ điều dưỡng, thuốc men, sau khi bình phục sức khỏe, rồi liên hệ với gia đình đưa các anh trở về địa phương tiếp tục kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Cũng năm 1973, có anh Thanh ở miền Trung là cán bộ trinh sát được chùa Bửu Phong bảo vệ hỗ trợ hoạt động cho đến khi giải phóng. Tại chùa Bửu Phong có một hầm bí mật của các vị lãnh đạo cách mạng hoạt động trong thời kháng chiến, trong đó có ông Phan Văn Trang, nguyên Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Đồng Nai là người trực tiếp chỉ đạo đánh trận vào sân bay Biên Hòa, năm 1968.

Ngày 24/04/1975, ban lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam, gồm có Đại lão Hòa thượng Thích Huệ Thành, Hòa thượng Thích Bửu Ý, ông Lê Hoàng Minh… họp khẩn để sẵn sàng cùng toàn quân dân tiến công và nổi dậy để lật đổ chế độ Sài Gòn và thành lập chánh quyền nhân dân cách mạng. Đến ngày 30/04/1975 kết thúc thắng lợi chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam chỉ đạo, các thành viên hội các tỉnh tham gia chào mừng thắng lợi và rước Hòa thượng Thích Minh Nguyệt về Viện Tăng thống Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam, chùa Trường Thạnh, đường Bác sĩ Yersin - Sài Gòn.

Sau ngày giải phóng chúng tôi (Ni trưởng Huệ Hương) được Đại lão Hòa thượng Thích Huệ Thành cho tham gia các công tác, như tham gia khóa học đào tạo cán bộ Phật giáo yêu nước (60 vị, tại Viện Tăng thống Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam), tham dự Hội nghị Hiệp thương chánh trị, thành lập Ban Phật giáo yêu nước, tham gia Đại hội thống nhất Phật giáo năm 1981. Tại Đại hội, Đại lão Hòa thượng Thích Huệ Thành, với chức danh đương kiêm là Tăng thống Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam, đại diện Tăng Ni và Phật tử hệ phái tuyên bố, bãi bỏ Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam để cùng chín hệ phái, gia nhập thành Giáo hội Phật giáo Việt Nam, trong Đại hội, đại biểu suy cử Đại lão Hòa thượng Thích Huệ Thành là Phó Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Đến năm 1982, Đại lão Hòa thượng Thích Huệ Thành về Đồng Nai (tỉnh Đồng Nai lúc bây giờ là 03 tỉnh nhập lại, tỉnh Biên Hòa, tỉnh Long Khánh và tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu), tổ chức Đại hội thống nhất Phật giáo tỉnh nhà. Đại hội và Đại biểu tham dự Hội nghị, Tăng Ni và đồng bảo Phật tử suy cử Đại lão Hòa thượng Thích Huệ Thành là Trưởng Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Đồng Nai đầu tiên, và trong Đại hội này, có Hòa thượng Thích Thiện Khải, Hòa thượng Thích Diệu Tâm, Hòa thượng Thích Thiện Thuận, Thượng tọa Thích Huệ Hiền….và hôm nay tất cả quý ngài lần lượt quảy dép về Tây, bên Ni giới có Ni sư Thích Nữ Huệ Từ, Ni sư Thích Nữ Diệu Quang, Diệu Liên… nhưng hiện nay chỉ còn lại chúng tôi. Năm 1982, chúng tôi (Ni trưởng Huệ Hương) được Đại hội tỉnh suy cử là Ủy viên Văn hóa của Ban Trị sự tỉnh và lần lần từ đó, chúng tôi vẫn tiếp tục đảm trách các trách nhiệm, như Ủy viên Ban Từ thiện Trung ương, Ủy viên Hội đồng Trị sự, Phó Phân ban Ni giới Trung ương, chuyên trách đối ngoại, Ủy viên Ban Tăng sự Trung ương, Phó ban Ban Trị sự, Phó ban Tăng sự tỉnh, Trưởng Phân ban Ni giới tỉnh Đồng Nai đến hiện nay là nhiệm kỳ VIII (2017 – 2022). Và ngoài xã hội chúng tôi tham gia Hội đồng Nhân dân và Mặt trận tỉnh và Tp. Biên Hòa và tham gia các hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ nhiều khóa từ tỉnh đến Tp. Biên Hòa.

4. Sự đóng góp của Ni giới Phật giáo Cổ truyền Việt Nam

Theo quá trình hoạt động của Đại lão Hòa thượng Thích Huệ Thành đã góp phần cho đạo pháp và dân tộc rất lớn, vì ngài quan niệm: “Dân tộc có hưng thì đạo pháp mới thịnh, Dân tộc trong gông kềm, thì đạo pháp bị điêu linh, nên lòng chúng ta luôn ôm ấp hoài bảo sao cho đất nước được hòa bình độc lập, thống nhất”. Đó là hoài bảo của Đại lão Hòa thượng ân sư của chúng tôi. Với hạnh nguyện cao cả của ngài nên có nhiều đệ tử Tăng Ni thành tựu. Ở đây chúng tôi chỉ đề cặp bên Ni mà thôi, như pháp muội của Hòa Thượng ân sư là thầy Yết ma Thiện Niệm. Một tiểu thư Marguerite Bez, mà giới Phật giáo Đồng Nai thường gọi là thầy Yết ma Thiện Niệm (1910 – 1961), trụ trì chùa Hiển Lâm (chùa Hóc Ông che) nay thuộc phường Hóa An, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Theo lược sử tại Tổ đình Long Thiền (Biên Hòa) đã được ghi lại thầy Yết ma Thiện Niệm hay tiểu thư Marguerite Bez, ngài sinh trưởng trong gia đình theo đạo Thiên Chúa, cha là người Pháp tên Leon Bez, khi kính tin Tam Bảo, thọ giới Ưu bà tắc, pháp danh Thiện Hưng (1889 – 1973); mẹ là người Việt, tên bà Leon Bez Nguyễn Thị Cúc, thọ giới Ưu bà di, pháp danh Diệu Xuân (1893 – 1969). Ngài là người con cả trong gia đình. Năm lên 12 tuổi (1922) lâm trọng bệnh, gia đình mời các bác sĩ Pháp, Việt, Trung Hoa và cả những pháp sư Ấn Độ nổi tiếng nhưng trị không hết. Gia đình nghe tiếng thiền sư Huệ Lâm trị các bệnh rất tài giỏi, thế rồi, cả gia đình tìm đến thiền sư Huệ Lâm xin được điều trị bệnh cho con mình, khi trị hết bệnh, gia đình cho con gái xuất gia với Tổ Huệ Lâm và được Hòa thượng đặt pháp danh Thiện Niệm, hiệu Hồng Liên, dòng thiền Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 40.

Vốn sinh ra trong gia đình thượng lưu, thông minh sẵn có, ngài thông thạo cả ba ngôn ngữ Pháp, Hán, Việt và tinh thông kinh điển, giảng kinh, thuyết pháp…Đặc biệt là ngài giỏi về y dược nên dùng phương tiện này trị bệnh cho dân nghèo và rất thường trì chú Đại bi, trị bệnh cho những người bị tâm thần…kết quả rất tốt, việc nghe thấy huyền thoại, nhưng lại là có thật…Từ đó, ngài trở nên vị thầy nổi tiếng, trị những căn bệnh nan y, nhất là bệnh tâm thần tại Biên Hòa thời bấy giờ. Người dân Biên Hòa thường gọi ngài với tên thân thương gần gủi là thầy Yết ma Thiện Niệm.

Từ một tiểu thư Marguerite Bez, con cả của vị quan chức Pháp, sau khi xuất gia, gia tâm hành Bồ Tát đạo được chuyển hình tướng như một vị Tăng, đó cũng là phước báo của ngài. Cuộc đời của thầy Yết ma Thiện Niệm không dừng lại một vị tu sĩ bình thường, ngài còn tham gia hoạt động Phật giáo, với chức vụ là Trưởng ban Hoằng pháp Giáo hội Lục Hòa Tăng, Hội trưởng Hội Lục Hòa Phật tử và tham gia viết trong tờ báo Từ Bi Âm từ năm 1936 đến 1941 về mảng “Phật pháp thường thức vấn đáp”. Điều đáng chú ý, ngài là người quốc tịch Pháp, có phân nửa mang dòng máu người Việt, nhưng vì dân tộc Việt, vì đấu tranh chính nghĩa, ngài đã mạnh dạn rũ bỏ quốc tịch Pháp, để tham gia chống Pháp, với chức vụ là Trưởng ban kinh tế tài chánh Hội Phật giáo cứu quốc Nam Bộ tỉnh Biên Hòa. Ngài đã vận động chị em và những người thân tại Pháp ủng hộ tài chánh để nuôi giấu cán bộ hoạt động nội thành tại chùa Hiển Lâm - Biên Hòa. Ngài đã từng bị giặc Pháp bắt tra tấn dã man, nhưng với ý chí yêu dân tộc Việt và giữ vững lập trường, đấu tranh cho độc lập dân tộc. Trong việc bố ráp nghiêm ngặt của thực dân, ngài xin di tản ra chùa Long Thiền, cùng tham gia Phật giáo cứu quốc Nam Bộ.

Thầy Yết ma Thiện Niệm, do nhiều năm sống trong rừng thiêng nước độc, thân bị giặc bắt tra tấn nên ngài lâm trọng bệnh và viên tịch vào lúc 16 giờ ngày 20 tháng 11 năm Tân Sửu, nhằm 27/12/1961. Hiện nay bảo tháp của ngài được tôn trí tại khuôn viên Tổ đình Long Thiền, ngôi di tích lịch sử cấp quốc gia tại tỉnh Đồng Nai.

Ba mươi mốt năm hành Bồ tát đạo là không dài, nhưng ngài đã để lại cho trần gian biết bao sự kỳ tích nghe như huyền thoại, nhưng có thật. Hiện nay trong lịch sử nội bộ còn lưu nhiều bài kệ của ngài, như bài Từ Tâm:

Thù ân báo bổ độ tề gia,

Bá nạp thân la diệu lý ca.

Vạn pháp đạo đồng giai cảm ứng,

Từ tâm Phật tiếp dẫn hà sa.”

(酬恩報補度齊家,

百衲身羅妙理迦,

萬法道同皆感應,

慈心佛接引河沙.)

Tạm dịch:

Gia đình ơn nặng mong đề đáp,

Áo vá thân vui ánh đạo vàng.

Ứng tâm thông hiểu vạn lý kinh,

Chỉ dùng tâm Phật giúp mọi nhà.

Trên đây sơ lược hành trạng cả đời, một vị lập hạnh nguyện chuyển từ thân nữ tay yếu chân mềm, trở thành hình tướng vị Tăng đầy nhiệt huyết để đi vào đời, tùy duyên thực hành hạnh nguyện Bồ tát, trong xã hội thời loạn lạc. Nghĩa cử của vị Ni chân tu thật học, người quốc tịch Pháp lại yêu thương Việt Nam không màng gian lao khó nhọc, ngài làm những việc mà có vị Ni khác không làm được, thật đáng là tấm gương sáng để Ni lưu hậu học noi theo!

Ngoài ra, còn rất nhiều Chư Tôn đức Ni, như Ni trưởng Thích Nữ Tịnh Nguyện, trụ trì chùa An Linh – Dĩ An; Ni trưởng Thích Nữ Diệu Trí; Ni trưởng Diệu Thanh, Ni trưởng Diệu Chánh, Ni trưởng Diệu Niệm…và Pháp điệt Ni trưởng Thích Nữ Như Châu, Phó ban Ni giới TƯ, Trưởng Phân Ban Ni giới TP. HCM, trụ trì chùa Huê Lâm…Nhất là vào năm 1952. 1953, 1954 có ông Lê Biên Thùy, sinh 1926, là cán sự Bộ Công An, đang công tác tại chùa Vĩnh Phước và ông đi tập kết, đến ngày giải phóng 30/4/1975, thì vào ngày 30/9/1975 về Rạch Giá có “xác nhận…. Thầy Nguyễn Trí Trực và Sư bà Trương Ngọc Lan là người có công cách mạng và nuôi giấu cán bộ…” trong đó có ông. Giấy xác nhận vẫn còn tại chùa Vĩnh Phước tỉnh Kiên Giang.

Trên đây là một số Chư Tôn đức Ni tiêu biểu đã có công đóng góp hai thời kỳ chống Pháp và Mỹ và âm thầm cùng nhau ủng hộ, củng cố, phát triền Phật giáo Cổ truyền đến ngày hôm nay.

Tóm lại, hôm nay tổ chức Hội thảo về các phong trào Phật giáo gắn bó với sự tồn vong, thạnh suy của đất nước và dân tộc, như từ khi Hội Lục Hòa Liên Xã, đến Hội Phật giáo cứu quốc Nam Bộ, Giáo Hội Phật giáo Lục Hòa Tăng, Hội Lục Hòa Phật tử, Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam và đến nay là Giáo hội Phật giáo Việt Nam, lãnh đạo trong và ngoài nước. Đó là đánh dấu sự thành công của Phật giáo Việt Nam, trong đó có sự đóng góp của Phật giáo cổ truyền chúng tôi. Đây là nhờ sự lãnh đạo rất sáng suốt của Đảng, Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên Việt, các vị cách mạng lão thành, luôn sát cánh với Chư Tôn Đức trưởng lão trong Phật giáo cứu quốc Nam Bộ. Chư Tôn Đức lãnh đạo Giáo hội qua các thời kỳ cho đến bấy giờ là một tấm gương sáng để hậu thế noi theo.

Ở đây, chúng tôi chỉ đề cập một số điểm tiêu biểu và còn nhiều, rất nhiều công lao hiển hách của Chư Tôn Đức lãnh đạo qua các thời kỳ của Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam. Cho nên, trong bài viết này có nhiều điều thiếu sót, kính mong Quý học giả trí thức, chư Tăng Ni hoan hỷ góp ý, chỉ giáo!

Kính chúc Quý Ngài và Quý vị khách quý vô lượng an lạc. Xin trân trọng cám ơn!

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Thích Huệ Thông, Lược sử Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam, Nxb: Văn hóa - văn nghệ TPHCM, 2019.

2. Đại lão Hòa thượng Thích Huệ Thành Báo cáo khái quát quá trình hình thành và chuyển biến của Phật giáo cứu quốc Nam Bộ (1945 – 1985), Lưu hành nội bộ.

3. Các bài phát biểu của Đại lão Hòa thượng Thích Huệ Thành

4. Lê Cung 50 năm nhìn lại phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam (1963 – 2013,), Nxb Đại học Huế, năm 2013.

5. Ban chỉ đạo lễ kỷ niệm 300 năm vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai, Biên Hòa – Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển, Nxb Đồng Nai, năm 1998.

6. Huỳnh Ngọc Trảng, Địa chí Đồng Nai, Tập I Tổng quan, Nxb Thông Tấn Xã Việt Nam, Xí nghiệp In Đồng Nai năm 2001.

 


1. Quý vị muốn biết thêm về sự hình thành và phát triểu Hội Phật giáo cứu quốc ở Sài Gòn, Già Định và các tỉnh nên xem HT Thích Huệ Thông Lược sử Phật giáo Cổ truyên Lục Hòa Tăng, Chương 2, Nxb Văn hóa Văn nghệ TP. HCM, 2019, tr 118 – 204.

2. Huỳnh Ngọc Trảng chủ biên, Địa chí Đồng Nai tập I (Tổng quan), Nxb Xí nghiệp in Đồng Nai và Nhà in Thông Tấn Xã Việt Nam, năm 2001, tr. 306.

3. Chỗ này tham khảo Thích Huệ Thông Lược sử Phật giáo Cổ truyền Lục Hòa Tăng, Chương 2, Nxb Văn hóa Văn nghệ TP.HCM

4. Tham khảo tài liệu HT. Thích Huệ Thành trong Báo cáo khái quát quá trình hình thành và chuyển hướng của Phật giáo cứu quốc Nam Bộ, tr. 10, và tài liệu Thích Huệ Thông trong quyển lược sử Phật giáo Cổ truyền Lục Hòa Tăng, Nxb Văn hóa Văn nghệ TP.HCM.

5. Đây là danh sách của Hòa thượng Thích Huệ Thành trong bản Báo cáo khái quát quá trình hình thành chuyển hướng của Phật giáo cứu quốc Nam Bộ, tr. 5.

6. Đây là danh sách được trích trong bài báo cáo của Đại lão Hòa thượng Thích Huệ Thành Báo cáo khái quát quá trình hình thành chuyển hướng của Phật giáo cứu quốc Nam Bộ, tr. 3.

7. Đây là danh sách của Hòa thượng Thích Huệ Thành trong bản Báo cáo khái quát quá trình hình thành chuyển hướng của Phật giáo cứu quốc Nam Bộ.

8. Đây là Phần cuối của Hiến chương Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam.

9. Theo Tài liệu Báo cáo khái quát quá trình hình thành và chuyển hướng của Phật giáo cứu quốc Nam Bộ của Đại lão Hòa thượng Thích Huệ Thành, Tr. 7-8.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 10)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 9)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 8)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 21
    • Số lượt truy cập : 6795730