QUẢ VỊ PHẬT: NIỀM VUI LỚN CỦA CHÚNG SANH!
HOÀNG VĂN LỄ
Chúng ta đều biết: Phật tại thế 80 tuổi đời, 45 năm truyền đạo pháp. Ngoài các triết lý cao siêu, huyền bí rất tâm linh và siêu hình; Phật để lại cho chúng sinh gương tu học và các ứng xử đạo đức rất thực tế, mảng đạo đức trong Phật học là một động lực truyền thừa tiếp đạo rất hiệu nghiệm; trong đó đức “từ bi” là nội dung cốt lõi trong kính ngưỡng Phật - Pháp - Tăng.
Từ là ban niềm vui, bi là cứu khổ. Cho ai? Cho con người, cho chúng sanh có tri giác, có hành vi, có cuộc sống…
Vì khổ là thực tế sống động dễ nhận biết và rất khó quên, gieo rắc và cô đọng trong cuộc sống, có trường hợp dính kết cả đời; có lẽ vì vậy cứu khổ là mạch truyền liên tục trong kiếp sống con người; Bồ tát Quan Thế Âm là pháp danh được chúng cư sĩ khấn nguyện nhiều nhất, khi gặp nạn, khi bất trắc, khi niềm đau khôn nguôi luôn áp lực trong tâm khảm và thực tế cuộc sống đời thường.
Từ là ban niềm vui, mang niềm vui, mang hạnh phúc đến chúng sanh và từng con người, lại tiếp dẫn hạn hữu hơn nhiều so với bi. Chính Đức Phật cuộc đời tại thế, nhất là khi hành đạo, làm đạo đã luôn mang niềm vui đến với đệ tử và chúng sanh. Hai niềm vui rất lớn như sau:
Phật đản sanh, theo sử Phật có chư thiên chào mừng hoan ca, ngài bước đi có tòa sen hiện dưới bàn chân, 7 bước chân, tay phải chỉ lên trời, tay trái chỉ xuống đất, nói câu bất hủ: “thiên thượng thiên hạ, duy ngã vi tôn”… Câu chuyện tôn vinh như thần thoại, nhưng Tất Đạt Đa là một người hạnh phúc ngay từ khi tượng hình trong lòng mẹ (Hoàng hậu Ma da) khi chưa biết là nam hay nữ, ra đời là hoàng tử, là thái tử của nước Ma Kiệt Đà được vua cha chờ đợi, là người sẽ nối tiếp ngai vàng trị vì thiên hạ; là niềm vui quá lớn. Đó không chỉ là niềm vui của vua cha và triều đình, mà còn là niềm vui của dân chúng với hy vọng về sau là đức vua anh minh của vùng đất yên bình. Có hay không thiên thần xuất hiện và 7 bước chân hướng tầm tương lai thì không biết chắc, còn niềm vui của một trẻ sơ sinh mà về sau là vua của đất nước là việc có thật, cũng đủ nói lên lòng từ của nhân thế. Càng về sau, câu chuyện Phật đản sanh thực sự là niềm vui cho nhân loại, vì một con người lịch sử đã để lại con đường tu tập để giải đáp chu kỳ sinh lão bệnh chết của kiếp người, thoát khỏi vòng luân hồi, hưởng nếp sống an vui nơi cõi Phật.
Ở cõi ta bà này, sinh con phần lớn là xinh đẹp, số phận tật nguyền xấu xí chiếm tỉ lệ thấp. Con nét đẹp sơ sinh là niềm vui cho người mẹ, cho gia đình hạt nhân, cho dòng họ…; đó là nguồn hạnh phúc gia đình phổ biến. Thái tử Tất Đạt Đa là niềm vui chung của quốc dân là một hiển nhiên. Tiếng khóc của trẻ khi lọt lòng mẹ, có người ví như khởi đầu của kiếp người đầy khổ ách; nhưng y học ngày nay minh chứng, tiếng khóc đầu tiên ấy hoàn tất chu trình hô hấp của trẻ sơ sinh, luồng không khí tràn vào phổi, giúp vách ngăn nửa phần tim trái (máu đỏ) với nửa phần tim phải (máu đen) hoàn tất để tự sinh tồn không phải nhờ vào nhau thai của người mẹ nữa, sự tuần hoàn huyết hoàn tất cho cuộc sống riêng của trẻ. Tôi chứng kiến một trường hợp, cháu trai nối dõi được cả họ chờ đợi, sinh ở nhà hộ sinh xã nhà, sinh khó, khi lọt lòng hơn phút sau mới cất tiếng khóc, tuần hoàn huyết không trọn vẹn, nên cháu mặt cứ đen sạm trong vài phút rồi hồng hào trở lại. Bệnh tim bẩm sinh được đưa ngay chữa trị ở bệnh viện nhi đồng, nhưng không thể cứu được, gần một tuần sau cháu bé qua đời trong nỗi tiếc thương của hai họ nội ngoại. Bác sĩ giải thích rằng, màn ngăn hai nửa tim phải và trái không hoàn chỉnh, phải giải phẫu tim với trang thiết bị y khoa tân tiến mới chữa được. Tiếng khóc quan trọng đến thế, không phải là dấu hiệu khổ ách của con người.
Đức Phật khi sinh ra đời có lẽ cũng vậy để đi vào kiếp người. Quá trình lớn lên và trưởng thành được nuôi dưỡng trong môi trường tuyệt hảo, được dạy và rèn luyện tài năng để có thể làm bậc quân vương; là người được biệt đãi nhất đất nước, cũng có thể gặp cảnh ganh tỵ của thói đời. Tuy vậy, mỗi thành công của Thái tử mang niềm vui đến nhiều người, nhất là vị vua cha.
Thái tử lấy vợ và sau đó sinh cháu trai xinh đẹp, tiếp tục là niềm vui tột đỉnh của vị vua già. Nhưng tất cả niềm vui to lớn và nhất thời đó không là niềm hạnh phúc của Thái tử khi người nhận ra lẽ sinh tồn ác nghiệt không ai thoát khỏi của kiếp người, sinh già bệnh chết là điều không thể tránh, niềm vui thế gian không sao che khuất nỗi khổ con người trong cõi ta bà. Thái tử từ bỏ vương quyền, đi tu tìm chân lý và con đường giải thoát.
Ra đi của Thái tử Tất Đạt Đa là niềm đau của vua cha, người vợ trẻ và cả triều đình cùng dân chúng; nhưng đây là khởi đầu khả dĩ tìm con đường giải thoát cho chúng sinh, cao cả hơn làm một vị vua anh minh trần thế. Việc này vua cha đã được các nhà tiên tri nói đến khi Thái tử còn tuổi sơ sinh với 36 quý tướng và sắc thái tuyệt vời. Chính nhà vua đã tìm mọi cách từ nhà ở với các dinh thự ba mùa, với cung tần hết lòng chăm sóc, và khéo buộc Thái tử vào cuộc hôn nhân, sinh ra con trai nối nghiệp vương quyền. Nhưng nhà vua không thể đi vào tâm khảm và niềm ưu tư của Thái tử, không thể ngăn cản con đường tìm phương thức giải thoát cho kiếp nhân sinh. Việc tìm lại niềm vui vương quyền chỉ trông đợi vào cháu nội La-hầu-la mà thôi! Nỗi buồn của vua cha không tránh khỏi. Khi ngài lâm chung Phật Thích Ca có mặt, hướng dẫn vua cha vào cõi an lành.
Sau 6 năm dò tìm thấu đáo các phương cách tu hành, tu khổ hạnh bỏ ăn đến mức rờ vào bụng chạm xương sống, có thể bỏ mạng oan uổng một kiếp tu hành. Ngài ngộ ra rằng tu ép xác không những không tìm ra chân lý giải thoát mà còn thiệt thân, sức khỏe không còn làm sao tu thành chánh quả. Ngài tiếp nhận chén sữa cúng dường của nàng Sujata, rồi sức khỏe dần trở lại. Ngài đến cội bồ đề ở Lâm-tì-ni tham thiền, lời nguyền không tìm ra chân lý không đứng dậy nữa. 49 ngày đêm thiền định, không ăn uống và ngài đã giác ngộ.
- Trong đêm thứ 49, vào khoảng 10 giờ lúc canh hai, Đức Phật đã chứng quả Túc mạng minh, nhìn thấy rõ các kiếp quá khứ của mình. Chứng minh bằng rất nhiều câu chuyện truyền khẩu và được kiết tập thành các bộ kinh, đặc biệt là bộ kinh Pháp Cú. Có câu chuyện ly kỳ nhiều tập, đan chéo vào nhiều kiếp nhân sinh trong đó có mối tương tác với đức Phật trong tiền kiếp, nhất là gắn với các đệ tử đương thời Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ananda… Trên thực tế có người trần thế thấy được kiếp trước của người đã mất, hóa kiếp làm thú trong gia đình con cháu mình, họ nói giống như Đức Phật nhưng lý giải không thật thuyết phục; có thể những câu chuyện tưởng tượng của nhà soạn giả biên kịch sân khấu, tức nhiên chỉ có giá trị giải trí và giáo dục đạo đức có tính nhất thời; nhiều câu chuyện dị đoan rất bí hiểm, có chuyện như lừa đảo đối tác, người đang thất vọng mất lòng tin nghiêm trọng.
- Tới khoảng nửa đêm canh ba, Đức Phật chứng quả Thông nhãn minh, thấy được tất cả bản thể vũ trụ, biết cấu tạo thế giới vũ trụ, thành trụ hoại diệt; thấy kiếp quá khứ của người đối diện và có thể nói rõ thì tương lai.
Người trần thế chúng ta chỉ cần tiên đoán đúng một vài sự việc đã được tôn là bậc thánh rồi, dù đó chỉ là tri thức và phương pháp suy đoán; như bà Baba Vanga sinh ngày 31/1/1911 tại Strumica từng sinh sống ở Ottoman, Bulgaria, Nam Tư và cuối cùng là Cộng hòa Madedonia; Bà được cho là đã dự đoán đúng sự trỗi dậy của tổ chức Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS), vụ đắm tàu ngầm Kursk của Nga hồi năm 2000, vụ tấn công khủng bố 11/9/2001 ở Mỹ, việc Anh rời Liên minh châu Âu (Brexit) gần đây... Sự tiên tri của Bà đã và đang được nghiên cứu, bà có được thứ ánh sáng không phải của người trần thế, là bí ẩn của con người như rất nhiều hiện tượng, sự việc kỳ diệu khác chưa thể giải thích ngay được.
Đức Phật đạt Thiên nhãn minh không phải là dạng tiên tri trần thế. Những câu chuyện thuật lại rất hợp lý trong kinh sách minh chứng, thuyết phục các đệ tử và Phật tử nhiều thế hệ đến nay. Có thể nhiều chi tiết trong các truyện dẫn được thêm bớt (biên tập) cho chỉn chu, song triết lý nội dung vẫn rất trong sáng không ngụy biện. Do vậy, rất nhiều nhà khoa học tài danh từ Đông sang Tây thừa nhận: đạo Phật với triết lý giải thoát, tu chứng trung đạo, hòa bình và nhân văn… là hướng vị lai của nhân loại. Nói như vậy để có lòng tin học Phật, không phải chỉ tôn vinh mà để hóa giải các hận thù, si mê, lầm lạc. Theo kinh sách, thời Long Hoa hội tụ còn rất xa thời điểm hiện tại, bấy giờ con người mới hết khổ, được an lạc hoàn toàn. Tu hành nhiều kiếp mới tận diệt tham sân si và giải thoát.
- Đến canh tư (khoảng 2 giờ sáng), Đức Phật chứng “Lậu tận minh”, sạch hết ô nhiễm; biết rõ khổ, nguồn gốc của đau khổ, cách trừ đau khổ; con đường đạo quả viên mãn. Đạt vô lậu, sạch hết trần cấu là mục tiêu cuối cùng của kiếp người; đây là con đường tu học và thực hành của mọi người (Phật tử) được Phật dẫn dắt hàng ngàn, hàng vạn đệ tử và quần chúng suốt 45 năm hành đạo. Ngày nay, con người học Phật theo con đường “bát chánh đạo” Đức Phật chỉ ra hơn 2.500 năm nay. Tu hành từ nguồn kinh sách kết tập và mở rộng, ngày càng phong phú, đa sắc thái.
***
Tóm lại, mỗi chúng sinh cần xác lập mục tiêu học Phật, không cần vội vã mà cần tinh tấn trong từng kiếp người. Hạnh phúc khi thấy được con đường và mục tiêu giải thoát là niềm vui lớn mà đức Phật truyền dạy; còn việc giải thoát chắc chắn sẽ trải qua nhiều kiếp tu hành mới đến ngày đạt quả vị Phật, sớm hay muộn là do mỗi con người định đoạt.
Bình luận bài viết